C.mác - những cống hiến vĩ đại cho nhân loại

Trang Dimple

New member
Xu
38
C.MÁC NHỮNG CỐNG HIỄN VĨ ĐẠI CHO NHÂN LOẠI

C. Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Tơriơ trong gia đình luật sư Heinrich Marx. Năm mười hai tuổi (1830) C. Mác

vào học trường trung học ở Tơriơ. Sức học của C. Mác thuộc loại giỏi, đặc biệt C. Mác nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc

lập sáng tạo. C. Mác cũng tỏ ra có năng lực về toán học. Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trường trung học, sau đó không lâu,

tháng mười 1835, C. Mác vào trường đại học tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau theo lời khuyên của bố C. Mác tiếp tục

học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin. ở trường Đại học, năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ C. Mác bắt đầu đi sâu

nghiên cứu triết học. Mùa xuân 1837, C. Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ những tác phẩm của Hê-ghen, sang năm 1839 thì vùi đầu

vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm 1939 và một phần của năm 1840 C. Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề lịch sử triết

học Cổ đại. Ngày 15 Tháng Tư 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa

triết học tự nhiên của Démocrite, và triết học tự nhiên của épicure tại trường Iêna.

Tháng Năm 1843, C. Mác đến Kroisnak, một thành phố nhỏ vùng Rhein và ông đã chính thức làm lễ thành hôn với Jenny

vôn Vestphalen.

Lần đầu tiên, C. Mác gặp Ph. Ăng-ghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khi Ph. Ăng-ghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban

biên tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph. ăng-ghen đến thăm C. Mác ở Pa-ri. Hai ông đã trở

thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính

phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục xuất C. Mác. Ngày 3 tháng Hai 1845, C. Mác rời Pa-ri đến Brussel, ít lâu sau Ph.

Ăng-ghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1848, ở Pháp nổ ra Chính

phủ Bỉ trục xuất C. Mác. Ông lại đến Pa-ri, Tháng tư 1848, C. Mác cùng với Ph. Ăng-ghen đến Kioln, tại đây Mác trở thành Tổng

biên tập tờ Nhật báo tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ. Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất C. Mác. Ông

lại đến Pa-ri, nhưng lần này ông chỉ lưu lại ba tháng. Tháng Tám 1849, từ Pa-ri C. Mác đi Luân-đôn và sống đến cuối đời (1883).

C. Mác qua đời ngày 14 Tháng Ba 1883 ở Luân-đôn.

Hoạt động cách mạng sôi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử C. Mác

Công tác thực tiễn ở báo Rheinische Zeitung đã làm thay đổi cơ bản thế giới quan của C. Mác chuyển từ chủ nghĩa duy tâm

sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Tháng Hai 1844, trên tờ tạp chí Niên

giám Pháp - Đức C. Mác đăng bài Góp phần phê phán triết học pháp luật của Hê- ghen. Từ tháng Tư - tháng Tám 1844, C. Mác

viết Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan trọng mà sau này C.

Mác phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản. Tháng hai 1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của C. Mác và Ph. Ăng-

ghen viết chung ra đời phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hê-ghen trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ

chủ nghĩa duy tâm , đồng thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Thời kỳ hoạt động của C. Mác ở

Pa-ri kết thúc (tháng Hai 1845), một thời kỳ mới sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà C. Mác tự đặt ra cho mình: đề xuất một

học thuyết cách mạng mới. C. Mác cùng với Ph. Ăng- ghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845-1846) tiếp tục phê phán chủ

nghĩa duy tâm của Hê-ghen và phái Hê-ghen trẻ đồng thời phê phán chủ nghĩa duy tâm không nhất quán của Ludvich

Phoiơbach. Trong cuốn Sự bần cùng của triết học (1847) C. Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của P.J. Pruđông và trình bày

những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản. Năm 1848 được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn

những người cộng sản C. Mác và Ph. Ăng- ghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản- một văn kiện mang tính chất cương lĩnh

của chủ nghĩa C. Mác và đảng vô sản. Tháng Sáu năm 1859, công trình thiên tài của C. Mác Góp phần phê phán môn chính trị

kinh tế học ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học

thuyết Mác-xít về giá trị , cơ sở của học thuyết kinh tế của C. Mác.


C. Mác là người tổ chức và là lãnh đạo của Quốc tế cộng sản I thành lập ngày 28 tháng 9 1864, ở Luân- đôn. Năm 1867

bộ Tư bản (tập I)- tác phẩm chủ yếu của C. Mác ra đời. Tập II và III C. Mác không kịp hoàn tất, Ph. Ăng-ghen đảm nhận việc

chuẩn bị xuất bản hai tập này. Trong bộ Tư bản C. Mác đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt

đối và giá trị thặng dư tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hóa được phát triển

trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ.

Trong tác phẩm những năm cuối đời C. Mác nêu lên hình thức hợp lý nhất của chuyên chính vô sản là kiểu tổ chức chính trị như

công xã Pa-ri (Cuộc nội chiến ở Pháp- 1871).

Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gôta (1875) C. Mác đã kịch liệt phê phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những

người lãnh đạo đảng xã hội dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ

nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai

đoạn thấp- chủ nghĩa xã hội, giai đoạn cao- chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876 sau khi Quốc tế cộng sản đệ nhất giải tán, C. Mác

nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.

C.Mác là người khai sinh học thuyết chủa nghĩa xã hội khoa học, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hành trình trang bị

của giai cấp công nhân.

Chủ nghĩa Mác là hệ thống các quan điểm và học thuyết của Mác. Mác đã kế thừa và hoàn chỉnh một cách thiên tài ba trào lưu

tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XIX, thuộc ba nước tiến tiến nhất của loài người: triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ

điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.Trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của Mác, có thể nêu một số cống hiến nổi

bật sau đây:

Thứ nhất: Các Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới.


Các Mác đã xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Triết học duy vật biện chứng của Mác đã đập tan mọi thứ triết học duy

tâm, siêu hình, coi thế giới là do thần linh sáng tạo ra, vĩnh viễn không thay đổi, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào số

mệnh, may rủi, lịch sử xã hội là do ý muốn của thượng đế, hay của vua chúa, anh hùng tạo nên.

Triết học duy vật biện chứng vạch rõ thế giới bao gồm vô số sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ, vốn có một cách khách

quan, không do một sức huyền bí nào sáng tạo ra, luôn luôn ở trong sự liên hệ, ràng buộc lẫn nhau, ở trong sự vận động và biến

đổi, theo những quy luật khách quan. Nguồn gốc của sự vận động và biến đổi là sự đấu tranh và giải quyết mâu thuẫn nằm

ngay trong bản thân sự vật. Đấu tranh và giải quyết mâu thuẫn làm cho sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Cái mới ra đời là

một tất yếu vì nó phù hợp với quy luật phát triển. Nhận thức con người là sự phản ánh sáng tạo đối với các sự vật và hiện

tượng khách quan trên thế giới. Nhờ phương pháp nhận thức khoa học và thông qua thực tiễn hoạt động mà nhận thức, con

người có thể hiểu biết thế giới. Trên thế giới không có gì là con người không thể nhận thức được, chỉ có cái con người chưa

nhận thức được nhưng rồi sẽ nhận thức được. Vì nhận thức được quy luật của thế giới, nên con người có thể cải tạo được thế

giới. Sự hiểu biết của con người về thế giới là một quá trình từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, đúng như lịch sử tư

tưởng của loài người đã đi từ chỗ con người mông muội không hiểu gì về thế giới, đến thời đại con người nắm được quy luật vận

động của thế giới. Khả năng nhận thức của con người là vô tận.

Vận dụng triết học duy vật biện chứng vào việc xem xét xã hội, Mác đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật

phát triển của xã hội loài người. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội. Phương thức sản xuất

đời sống vật chất quyết định sinh hoạt chính trị, tinh thần của xã hội nói chung. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển

sản xuất, lịch sử những phương thức sản xuất kế tiếp nhau, cũng tức là lịch sử của những người sản xuất của cải vật chất, lịch

sử của quần chúng nhân dân lao động. Quần chúng nhân dân là động lực phát triển của lịch sử, là đội quân chủ lực của các

cuộc cách mạng xã hội thay thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời bằng chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn. Đảng Cộng sản, chính đảng của

giai cấp công nhân, có lý luận tiền phong soi đường, là lực lượng lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng để phá bỏ chế

độ áp bức, bóc lột cũ, xây dựng chế độ mới, chế độ cộng sản chủ nghĩa.

Lê-nin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Các Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa

học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về

lịch sử và chính trị”

Thứ hai: Các Mác đã tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản.


Bằng cách vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ

nghĩa, học thuyết kinh tế của Mác vạch ra những quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, vạch ra quá trình phát sinh,

phát triển và diệt vong của nó.

Một trong những phát hiện vĩ đại của Mác, là việc phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật

chung của xã hội tư bản. Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội

hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp

tư sản. Cũng như đối với xã hội có giai cấp trước đây, trong xã hội tư bản, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội.

Mác chứng minh về mặt lý luận rằng, giai cấp vô sản nhất thiết phải đấu tranh chống giai cấp tư sản và nhất định giai cấp vô

sản sẽ chiến thắng, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.


Thứ ba: Với hai phát kiến khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, Mác đã đặt nền
móng cho chủ nghĩa xã hội khoa học, học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa.


Lê-nin cho rằng điểm cốt yếu của học thuyết Mác là nó đã soi sáng vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là người xây

dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản.

Nhờ có thế giới quan khoa học, chủ nghĩa Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể tiêu diệt chế

độ tư bản và sáng tạo xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. Mác và Ăng-ghen chỉ ra cho giai cấp vô sản là trước hết phải tự mình

vùng lên đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Và trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết chung quanh mình tất cả

những người lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản phải đi tới lập nên nhà nước chuyên

chính vô sản, giai cấp vô sản dùng nó làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Mác và Ăng-ghen luôn luôn nhấn mạnh quan điểm, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không

phải là một lý tưởng, mà là hiện thực phải khuôn thử, mà là “một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ mọi trạng thái hiện nay”. Mác

và Ăng-ghen chứng minh tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và nêu ra những đặc điểm

cơ bản của chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp và giai đoạn cao. Giai đoạn thấp là xã

hội xã hội chủ nghĩa, vừa thoát ra từ xã hội tư bản chủ nghĩa, nên còn mang nhiều tàn tích của xã hội cũ. Trong xã hội xã hội

chủ nghĩa mỗi người đều được phân phối theo sự đóng góp công sức của mình cho xã hội. Nguyên tắc phân phối trong giai đoạn

này là: "lao động theo năng lực, phân phối theo lao động". Giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mác viết: "Trong giai

đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa, khi mà cá nhân không còn bị phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công nữa, và sự

đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng theo đó mà không còn nữa; khi mà lao động sẽ không phải chỉ là một

phương tiện để sống nữa, mà tự nó sẽ biến thành một nhu cầu bậc nhất đối với đời sống; khi mà chính lực lượng sản xuất cũng

đã tăng lên cùng với sự phát triển về mọi mặt của những cá nhân, và tất cả những nguồn của cải công cộng đều tuôn ra dào

dạt, thì chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của quyền lợi kiểu tư sản, và xã hội mới có thể ghi

trên lá cờ của mình: “ lao động theo năng lực, phân phối theo nhu cầu!"


Chủ nghĩa Mác là ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng cho giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới. Thiên tài của Mác là đã giải đáp các vấn đề mà loài người tiên tiến nêu lên nhưng chưa giải đáp được. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác chấm dứt thời kỳ mò mẫm như trong đêm tối của hàng triệu nhân dân lao động sống dưới ách áp bức và bóc lột, tìm đường giải phóng cho mình.
Lê-nin sau này đã khẳng định: Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của giai cấp tư sản”.

nguồn : diendankienthuc.net*

 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top