• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

BT địa 11

  • Thread starter Thread starter windi
  • Ngày gửi Ngày gửi

windi

New member
Xu
0
Mọi người giúp em vs, mai có tiết rồi
Câu 1: Trình bày sự tương phản về trình độ phát triển kinh tế- xã hội của các nước
Câu 2: Bằng sự hiểu biết của bản thân, viết đoạn văn ngắn từ 600-1000 từ về tác động của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật tới sự phát triển kinh tế- xã hội
 
Câu 1 : Em lấy ví dụ về sự phát triển kinh tế của 1 vài quốc gia để so sánh , về Nông nghiệp, Công nghiệp, Dịch vụ.

Ví dụ lấy kinh tế của Hoa Kỳ so sánh với 1 nước đang phát triển .
Câu 2. Câu này đơn giản quá, câu này phải từ thực tế mà suy nghĩ chứ, bài này có thể tham khảo thêm ở sách Lịch Sử Thế giới 12 - Bài cuộc cách mạng khoa học Kỹ thuật
 
Em tham khảo thêm nhé !

Sự biến đổi triệt để về chất của lực lượng sản xuất, biến khoa học kĩ thuật thành nhân tố chủ đạo của sự phát triển nền sản xuất xã hội, thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến sự biến đổi cách mạng trong cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội, trong tính chất và phân công lao động xã hội. CMKH - KT tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, đòi hỏi ngày càng nâng cao trình độ học thức chuyên môn, trình độ văn hoá, tổ chức, làm thay đổi thói quen, tập tục lỗi thời; thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.
Những phát minh trong khoa học - kĩ thuật cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 là tiền đề của cuộc CMKH - KT hiện đại. Cuộc CMKH - KT hiện đại được coi như bắt đầu giữa những năm 40 thế kỉ 20. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này: 1) Sự phát triển của ngành năng lượng mới. 2) Những vật liệu mới cho phép đổi mới và chế tạo những máy móc mới, trong đó có các tên lửa cực mạnh mở ra kỉ nguyên vũ trụ. 3) Cách mạng sinh học. 4) Máy tính có thể làm hàng triệu đến vài tỉ phép tính trong một giây. Từ khoảng giữa những năm 70, CMKH - KT bắt đầu có những đặc điểm mới. Có thể gọi đó là giai đoạn hai của CMKH - KT hiện đại. Đó là cuộc cách mạng chủ yếu về công nghệ với sự ra đời của máy tính điện tử thế hệ mới được sử dụng trong mọi hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, về vật liệu mới, về những dạng năng lượng mới và công nghệ sinh học, về phát triển tin học. Việc áp dụng những công nghệ hoàn toàn mới đã tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo chiều sâu, giảm hẳn tiêu hao năng lượng và nguyên liệu, giảm tác hại cho môi trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất. Trong giai đoạn trước, máy móc thay thế lao động cơ bắp; trong giai đoạn cách mạng tin học, máy tính làm nhiều chức năng của lao động trí óc. Một đặc điểm nổi bật của cuộc CMKH - KT ở giai đoạn này là cuộc cách mạng đó diễn ra trên cơ sở những thành tựu của khoa học hiện đại, trên cơ sở kết hợp rất chặt chẽ khoa học và kĩ thuật, khoa học và sản xuất vật chất. Song song với việc đi sâu vào từng khoa học riêng lẻ là sự xuất hiện của những lí thuyết ngày càng bao trùm hơn, của càng nhiều khoa học cụ thể khác nhau, cho phép sử dụng các thành tựu của khoa học này phục vụ khoa học kia, dù các ngành khoa học có khi rất xa nhau. Cho nên ngày nay, sản xuất chịu ảnh hưởng không phải là của những ngành khoa học riêng biệt nữa. Các thành quả của sản xuất là sản phẩm của một phạm vi nghiên cứu rộng lớn, và ngày càng rộng lớn hơn, bao trùm không chỉ các ngành khoa học tự nhiên, kĩ thuật và công nghệ, mà còn cả các ngành khoa học xã hội nữa: kinh tế học, quản lí sản xuất, quản lí xã hội, xã hội học, tâm lí học xã hội, mĩ học sản xuất, dự báo tiến bộ xã hội và khoa học kĩ thuật.
Ở Việt Nam, CMKH - KT được coi là có vị trí then chốt trong quá trình cải biến từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đi tới một nước công - nông nghiệp hiện đại. Mọi cố gắng về các mặt phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, động viên các tiềm năng về vốn, lao động, phát triển kinh tế đối ngoại... cũng nhằm mục tiêu thúc đẩy nhanh CMKH - KT.
 
co em hỏi toàn cầu hóa kinh tế tạo diều kiện chuyển giao những thành tựu mới về khoa học,công nghệ,về tổ chức &quản lí,sản xuất&kinh doanh tới tất cả các nước
 
Cơ hội

- Tự do hóa thương mại mở rộng, hàng rào thuế quan giữa các nước bị bãi bỏ hoặc giảm xuống, hàng hóa có điều kiện lưu thông rộng rãi => sản phẩm tìm được nhiều khách hàng hơn, thị trường mở rộng lớn hơn.

- Chủ động khai thác các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của nước khác, thực hiện chủ trương đa phương hóa quan hệ quốc tế => tạo điều kiện chuyển giao những thành tựu mời về khoa học và công nghệ
Thách thức

- Hàng hóa từ bên các nước có giá rẻ hơn thâm nhập vào thị trường do ít phải chịu hạn ngạch đánh thuế hoặc giảm thuế hơn => khách hàng trong nước sở tại dĩ nhiên chuộng đồ rẻ => giết chết các thương nghiệp nhỏ và vừa.

- Các siêu cường kinh tế tìm mọi cách áp đặt lối sống và nền văn hóa của mình với các nước khác, gây áp lực nặng nề đối với tự nhiên, làm môi trường suy thoái trên phạm vi toàn cầu và trong mọi quốc gia.
 
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI, thu nhập thế giới hàng năm chỉ hơi nhích lên, nhưng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã tăng khoảng 50%. Sau đó, trong một thế kỷ (1850 - 1950) nó đã tăng gấp 3 lần. Và chỉ trong nửa cuối thế kỷ 20 (1950 - 2000) lại tăng gấp 3 lần nữa (2).
Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, mọi hoạt động thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư đều tăng nhanh. Từ 1990 đến 1997, tăng trưởng khối lượng xuất khẩu thế giới hàng năm đạt 7% đạt trong khi tăng trưởng GDP thế giới chỉ đạt 3%. Lượng tiền trao đổi qua các giao dịch tài chính quốc tế hàng ngày trên thế giới năm 1986 mới ở mức 200 tỉ USD thì đến năm 1996 đã lên tới 1.500 tỉ USD (nay lên tới 3.500 tỷ USD). Từ năm 1991 đến 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng tăng 10%. Năm 1990 tổng số các công ty xuyên quốc gia là 35.000 với 150.000 chi nhánh thì đến 1997 đã lên tới 53.000 công ty với 450.000 chi nhánh hoạt động trên khắp thế giới (3).

Đấy là những nhân tố thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện ít nhiều thuận lợi cho các nước tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa do sự phân công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế.
Nhưng vì toàn cầu hóa mang tính chất tư bản chủ nghĩa rõ rệt "khi mà các nước tư bản chủ nghĩa giàu có nhất, các công ty tư bản xuyên quốc gia đang nắm trong tay những nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên toàn thế giới như vốn, kỹ thuật, công nghệ, các tổ chức và thể chế kinh tế, tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế. Họ nắm cả những phương tiện hùng mạnh nhất trong lĩnh vực sản xuất tinh thần và tác động tinh thần, cả những nguồn lực quan trọng nhất về chất xám ...."(4), thì rõ ràng quá trình toàn cầu hóa có nhiều bất lợi cho các nước nghèo và đang phát triển.

Nếu như trước đây, sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới còn dựa trên nguồn nguyên nhiên liệu, các nước nghèo và đang phát triển còn nhiều lợi thế đấu tranh, thì ngày nay nhân tố tri thức, cùng phương tiện truyền thông ngày càng đóng vai trò quan trọng lại nằm trong tay các nước phát triển giàu có.
Và toàn cầu hóa không những không tạo ra mức sống đồng đều cho mọi người, mọi quốc gia, mọi khu vực mà ngược lại nó làm cho hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng sâu rộng, bất bình đẳng ngày càng lớn. Theo chương trình Liên hợp quốc về phát triển (PNUD) thì cuối những năm 90, 85% thu nhập thế giới rơi vào túi 1/5 số người giàu nhất (trong khi vào những năm 60 họ mới chiếm 70%), 1/5 số người nghèo nhất chỉ chiếm 1,4% (những năm 60 còn chiếm 2,3%) (5).

Khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc diễn ra ở Giơnevơ mới đây đã kết luận "nghèo đói, sự không đồng đều và tình trạng mất an ninh đã tăng lên trên thế giới kể từ khi toàn cầu hóa được khởi động". Cách đây 5 năm, số người nghèo là 1 tỷ nay đã lên tới 1,2 tỷ. Các nước công nghiệp hóa giàu hơn các nước nghèo nhất tới 74 lần. Trong 30 nước nghèo nhất, thu nhập bình quân thực tế đầu người đã giảm đi trong 35 năm qua. Tài sản của 3 nước giàu nhất thế giới lớn hơn tổng sản phẩm quốc dân nội địa của các nước kém phát triển nhất cộng lại với số dân lên tới 600 triệu người (6). Còn theo báo cáo của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (CNUCED), thì trong số 644 tỷ USD đầu tư quốc tế, 2/3 vào Mỹ và Liên minh châu Âu, tất cả các nước đang phát triển chỉ thu hút được 1/3, trong đó cả lục địa châu Phi chỉ nhận được 8,3 tỷ USD tức chỉ chiếm 1,3% (7).

Thực chất "các nhà đầu tư quốc tế chủ yếu đến từ các nước phát triển và động cơ của họ là lợi nhuận kinh tế chứ không phải là giúp các nước đang phát triển tăng trưởng bền vững" (8).
Những năm 90, toàn cầu hóa có giúp cho tuổi thọ trung bình tăng lên và nạn mù chữ giảm đi phần nào. Nhưng những người mắc bệnh Aids lại tăng gấp đôi chỉ trong thời gian từ 1990 - 1997. Đến năm 1997 vẫn còn 850 triệu người lớn tuổi không biết đọc, biết viết; 1/3 tỷ người vẫn không được sử dụng nước sạch; 1/7 trẻ em ở độ tuổi đi học vẫn không được đến trường; 160 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng và số trẻ em phải làm việc nặng nhọc (9) còn nhiều hơn thế.

Gánh nặng nợ nần chồng chất cũng làm cho các nước nghèo và kém phát triển khó tranh thủ được những thuận lợi của toàn cầu hóa.
Sự mở cửa biên giới do hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa còn có nguy cơ làm gia tăng tình trạng buôn lậu vũ khí, ma tuý và làm trôi nổi số nhân công có tay nghề cao. Chẳng hạn, năm 1998 hơn 250.000 lao động châu Phi tay nghề cao sang làm việc tại châu Âu và Hoa Kỳ (10), và nếu tính toàn bộ các nước đang phát triển thì con số đó phải lên tới hàng triệu. Nạn chảy máu chất xám này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hội nhập và phát triển của các nước nghèo và đang phát triển.

Toàn cầu hóa cũng tác động mạnh đến việc hoạch định chính sách quốc gia của từng nước vì các Nhà nước sẽ khó khăn hơn trong việc thiết kế chính sách kinh tế xã hội của mình dưới con mắt xoi mói của các thị trường kinh tế và tài chính đã được toàn cầu hóa. Các nước chịu sức ép lớn buộc phải đặt các thoả thuận đa phương lên trên chính sách quốc gia.
Chính vì thế mà toàn cầu hóa diễn ra với "bao nhiêu mâu thuẫn đủ loại, cực kỳ phức tạp, đan xen. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là quyền lực và lợi ích chi phối, thao túng của những thế lực tư bản quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa với một bên là chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó là mâu thuẫn ngay trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa, giữa các tập đoàn tư bản với nhau. Đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng của cải với phân phối không công bằng dẫn tới phân cực giàu nghèo ngày càng tăng giữa các quốc gia và trong mỗi nước, giữa trung tâm với ngoại vi, giữa Bắc với Nam. Đó là mâu thuẫn giữa kinh tế tăng trưởng với văn hóa, đạo đức xã hội suy đồi do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường toàn cầu hóa. Đó là mâu thuẫn giữa hợp tác và đấu tranh. Là mâu thuẫn giữa xã hội với thiên nhiên biểu hiện ở hiểm hoạ ngày càng tăng và mâu thuẫn cho đời sống con người do tàn phá môi trường sinh thái (10).

Tóm lại, toàn cầu hóa là một quá trình tất yếu và những lợi ích mà nó mang lại là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt ra muôn vàn khó khăn, thách thức và mâu thuẫn cho các quốc gia đặc biệt là các nước nghèo và các nước đang phát triển.

Nhìn chung các nước giàu ca ngợi toàn cầu hóa và chỉ nhấn vào mặt thuận lợi của nó. Họ cho rằng đây là cơ hội để các nước nghèo và các nước đang phát triển tranh thủ vươn lên thóat khỏi đói nghèo và trở nên giàu có như những con rồng, con hổ châu A'... Còn các nước nghèo và các nước đang phát triển thì lo lắng, trăn trở trước những khó khăn, thách thức và mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa.

Cũng có một điểm chung là hầu hết các nước đều cảnh giác trước sự bá quyền của Mỹ trong tiến trình toàn cầu hóa. Tổng thống Pháp Jacques Chirac kêu gọi một thế giới đa cực trong đó Liên minh châu Âu phải trở thành một trong những cực mạnh nhất và kêu gọi giữ gìn bản sắc văn hóa Pháp cũng như văn hóa châu Âu trước sự thâm nhập và bành trướng mạnh mẽ của văn hóa Mỹ. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Vedrine cho rằng Mỹ hiện nay đã trở thành "siêu siêu cường" (Hyperpuissance) vì Mỹ đã vượt trội các nước khác cả về kinh tế, tiền tệ, công nghệ, quân sự, lối sống, ngôn ngữ và các sản phẩm văn hóa đại chúng. Mỹ đã và đang tung các thế mạnh đó ra thế giới nhằm nhào nặn mọi người theo cách suy nghĩ, cách sống, cách hành động kiểu Mỹ. Suy nghĩ này được nhiều nước chia sẻ. Bộ Trưởng Giáo dục Singapo Teo Chee Hean từng phát biểu tại cuộc hội thảo tại Pháp nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Quan hệ quốc tế Pháp (IFRI) rằng: "Điều bất hạnh là toàn cầu hóa thực tế là một sự Mỹ hóa".

Vì vậy, các nước nghèo và đang phát triển một mặt thừa nhận toàn cầu hóa sẽ tiếp tục là xu thế áp đảo trong thế kỷ thứ XXI, nhưng đòi hỏi toàn cầu hóa phải đem đến những cơ may đồng đều cho tất cả các nước, trước hết phải xóa nợ cho các nước nghèo, phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nước nghèo và đang phát triển có khả năng hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa. Muốn vậy, các nước phát triển không được sử dụng các tổ chức và thể chế quốc tế để áp đặt các luật chơi có lợi cho họ và tất nhiên bất lợi cho các nước nghèo và đang phát triển, chẳng hạn các nước phát triển đòi hỏi mở cửa thị trường cho các lĩnh vực mũi nhọn mà họ chiếm ưu thế trong khi khép lại hoặc bảo hộ các thị trường của họ đối với các mặt hàng truyền thống hoặc còn chút ít ưu thế của các nước nghèo và đang phát triển. Họ bảo hộ nền nông nghiệp của họ, hạn chế sự thâm nhập các sản phẩm nông nghiệp của các nước nghèo và đang phát triển, buộc các nước này phải cơ cấu lại nền kinh tế trong khi không chịu cơ cấu lại nền kinh tế của họ.

Các nước phát triển chủ yếu đầu tư lẫn nhau, còn số vốn đầu tư vào các nước đang phát triển rất ít, trong đó các nước nghèo lại càng nhận được phần ít hơn. Họ chuyển giao cho các nước này những công nghệ cũ kỹ, nhà máy xí nghiệp gây ô nhiễm để đi vào những ngành mũi nhọn, từ đó luôn giữ chìa khóa phát triển trong tay họ. Còn các nước nghèo và đang phát triển lắm khi buộc phải vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của mình, hy sinh môi trường sinh thái hòng đổi lấy sự phát triển có hạn. Họ đòi hỏi các nước đi vào nền kinh tế thị trường, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, đẩy nhanh tư nhân hóa, dân chủ hóa theo kiểu phương Tây nhằm tạo những tiền đề để chuyển hóa các chế độ chính trị mà họ không ưa. Họ rêu rao về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và dân chủ hóa, về sự "biện chứng hỗn hợp giữa phát triển với hiện đại hóa và dân chủ hóa". Những nước nào chống lại thì họ bao vây cấm vận. Điều họ muốn chính là làm thế nào nhào nặn tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới này theo hình mẫu tư bản chủ nghĩa phương Tây của họ.

Y' thức được những bất lợi, thách thức, mâu thuẫn trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới toàn cầu hóa đó, các nước nghèo và đang phát triển đòi hỏi " toàn cầu hóa phải được thuần hóa, nhân văn hóa" và để trong những thập kỷ tới tổ chức hệ thống quốc tế như thế nào đó cho phép con cháu mình được sống trong một thế giới hoà bình, thịnh vượng chung. Trước mắt, tất cả các nước nhất là các nước phát triển giàu có phải cùng quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc đặt ra, đó là xóa đói giảm nghèo, an ninh lương thực, nguồn nước, bảo vệ môi trường, chuẩn mực xã hội và sự đa dạng văn hóa....
Toàn cầu hóa là một tiến trình lịch sử chứ không phải là một sự phổ cập tức thì, là một bối cảnh chứ không phải là một giải pháp, do đó mỗi nước tuỳ hoàn cảnh cụ t
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top