Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Biểu tượng cánh đồng trong "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Áo Dài" data-source="post: 194098" data-attributes="member: 317449"><p>2.2.2. Cánh đồng – tình thương và niềm tin</p><p></p><p></p><p>Biểu tượng “cánh đồng” trong “Cánh đồng bất tận” chứa đựng những nỗi buồn chan chứa, tuy nhiên nỗi buồn ấy không làm ta bi quan mà cuồn cuộn khát khao được sống, được làm người. Bởi vì lớn hơn hết thảy “cánh đồng” còn là biểu tượng của tình thương, lòng nhân ái, niềm tin và những gì thuộc về giá trị nhân bản.</p><p></p><p></p><p>Đó là tình thương của hai chị em với người đàn bà tên Sương, tình thương của người cha đã tạo ra những tội lỗi bởi lòng thù hận với người vợ phụ tình nhưng vẫn lờ mờ cảm thấy trách nhiệm đối với hai đứa con. Cái chi tiết ông mua cho đứa con gái cái nhẫn để dành cho đám cưới cũng như việc “cởi cái áo trên người để đắp lên cho đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới ánh mặt trời” cho thấy tình thương và sự hối hận của người làm cha đã sống dậy.</p><p></p><p></p><p>Theo chúng tôi, cánh đồng là biểu tượng của tình thương đặc biệt gắn liền với nhân vật Điền trong tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Ngọc Tư đặt cho nhân vật tên là Điền (nghĩa từ nguyên là ruộng, gần gũi với cánh đồng). Điền là một biểu tượng chứa đựng ẩn ý của tác giả trong quá trình khái quát hoá nghệ thuật. Tác giả đã để nhân vật tôi thổ lộ thế này “Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng loại (còn tôi là đồng loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ người nghe được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó đã chết rồi), nhớ một người che chở (công việc này đáng nhẽ của ba, má tôi) ”. Đó chính là “đặc trưng” của Điền biết trân trọng, thấu hiểu, có tình yêu thương, ý thức che chở, giúp đỡ người khác nên là biểu tượng cho tình yêu thương, giá trị nhân bản. Theo chúng tôi, cách xây dựng biểu tượng “cánh đồng” ở đây đã dựa trên sự song trùng đặc điểm, tính chất giữa tên truyện và tên nhân vật. Đây không chỉ là nét riêng của truyện ngắn này mà có thể coi là một đặc điểm thi pháp của Nguyễn Ngọc Tư. Như vậy, nội hàm của biểu tượng “cánh đồng” ở đây chính là lòng yêu thương, tình nhân ái, sự trân trọng giá trị con người.</p><p></p><p></p><p>Song có một điều cần lưu ý là trong quá trình xây dựng biểu tượng, tác giả đã làm mờ nhoè ranh giới giữa cái Thiện và cái Ác, cái Tốt và cái Xấu, cái đáng trân trọng và cái đáng lên án. Nói khác đi là có sự tồn tại và đan xen đồng thời những phạm trù đối lập, cái nhân bản buộc phải chung sống và chứng nhận sự tha hoá, băng hoại. Biểu tượng “cánh đồng” cũng vì thế không trực diện mà ẩn sâu trong tâm trạng giằng xé trước hiện thực cuộc sống bộn bề. Y nghĩa rút ra từ biểu tượng chính là sự khát khao, lòng mong mỏi đến thiết tha, cháy bỏng (bất tận) rằng hãy bảo vệ, giữ gìn những giá trị người, hãy chống lại sự tha hoá con người. Đó cũng là chiều sâu nhân bản của tác phẩm. Điều đó lí giải vì sao chi tiết cuối cùng của thiên truyện, cái chi tiết đứa con gái vừa bị làm nhục đến nhàu nhừ vẫn ánh lên niềm tin và khát vọng. Trong cơn đau vật vã thể xác, nhân vật “tôi” vẫn chứng tỏ bản lĩnh không cam chịu “không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết”. Cái mầm thiện trong trái tim nhân vật “tôi” dù ngập trong máu nhưng nước mắt vẫn bừng xanh niềm hivọng sâu sắc thiêng liêng: nếu như “bị có con” sau cuộc bạo hành thì “đứa bé không cha nhưng chắc chắn sẽ được đến trường” sẽ sống hạnh phúc “vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Cho nên có thể nói, biểu tượng “cánh đồng” là biểu tượng về nỗi khắc khoải của số phận con người nhưng cũng chính là biểu tượng về niềm tin vào lòng cuộc sống “bất tận”. Nguyễn Ngọc Tư đến phút cuối đã để cho những thù hận qua đi, những vết thương được cánh đồng mênh mông nước trắng làm cho lành lại, cho bùn đất dịt vào da thịt để cảm nhận sự bất tận của nỗi đau và của tình yêu thương.</p><p></p><p></p><p>2.2.3. Cánh đồng – nỗi nhớ và thời gian</p><p></p><p></p><p>Biểu tượng “cánh đồng” trong “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư còn là biểu tượng cho nỗi nhớ và dòng thời gian trôi chảy. Có thể nói nỗi nhớ ngập tràn qua mỗi trang truyện. Bắt đầu từ nỗi nhớ mẹ “niềm nhớ lúc đi xa…”, nhớ lớp “Hai nhớ trường học quá à, cưng”, nhớ em, nhớ chị “tôi nhớ nó (tức Điền) và nhớ chị không thôi”, nhớ con người, nhớ bóng người, nhớ một đồng loại, nhớ một người che chở, nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa… như những lớp sóng cồn cào… Tất cả những nỗi nhớ ấy cứ vang xa, khắc khoải và day dứt. Nó thấm vào ta, lan toả quanh ta: từ nỗi nhớ cụ thể, gần gũi đến những nỗi nhớ thương lớn lao, vời xa về con người, về đồng loại.</p><p></p><p></p><p>Tất cả những nỗi nhớ ấy suy cho cùng là nỗi nhớ về quá khứ, về không gian cánh đồng đã có từ thời “miên viễn” mà nay đã “trở thành đô thị” “ngoa ngoắt thay đổi vị của nước” “từ ngọt sang mặn chát” “những cánh đồng vắng bóng người và lúa rày mọc hoang”. “Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Điều này cho thấy các cánh đồng đã bị khai thác đến kiệt quệ, bị xâm thực, bị lãng quên… đã nghiễm nhiên bị tước mất khả năng dâng hiến cho con người những mùa màng bội thu. Đứng trước hiện thực cánh đồng miền Nam một thời mỡ màu, trù phú đang chịu những tác động thô bạo bởi lòng tham và sự mù quáng của con người… có cần gióng lên hồi chuông báo động? Ý nghĩa thời sự của tác phẩm phải chăng một phần được đọng lại ở cách xây dựng biểu tượng như thế?</p><p></p><p></p><p>Như vậy rõ ràng “cánh đồng” còn biểu trưng cho nỗi nhớ và dòng thời gian trôi chảy, nỗi nhớ về cánh đồng của niềm thương, nỗi đau, của tình yêu quặn thắt nơi người kể chuyện. Cái ý nghĩa biểu trưng này cho đến cuối cùng thiên truyện mới được hé lộ. Bởi Nguyễn Ngọc Tư đã viết cái đề tài mà chị khai thác theo một cách khác. Từ những làng quê yên ổn cầm chừng trong sự đói nghèo, đã có những cuộc ra đi, những con người ra đi đến nơi chốn thị thành rợn ngợp. Chính nó tạo nên một khoảng trống trong tâm hồn người ở lại, một cái gì đó cựa quậy, bất an. Nhưng chị không kể chuyện của người ra đi mà kể câu chuyện của người ở lại trong tiếng gọi khản giọng và cái nhìn khắc khoải. Sự chờ đợi trong khoảng không u buồn, tĩnh mịch vẫn rợn ngợp mênh mông và thấm vào da thịt. Nhưng rồi rốt cuộc, chính họ (những người chờ đợi) lại phải ra đi, không phải do không còn chịu đựng sự ngưng đọng của thời gian, không phải cảm giác bị bỏ rơi mà là cảm giác đã đánh mất hạnh phúc mong manh cần được chăm chút, nâng niu, đánh mất những khao khát bị sự yên ổn cầm chừng che giấu. Họ bước vào cuộc kiếm tìm đau đáu nhưng vô vọng trong khao khát giã từ lưu lạc. Cho nên nỗi nhớ ở đây vừa xót xa vừa thấm thía tình người.</p><p></p><p>3. Nhận xét</p><p></p><p></p><p>3.1. Qua khảo sát tần số xuất hiện của biểu tượng “cánh đồng” và các nghĩa biểu trưng của nó, chúng tôi nhận thấy biểu tượng này mang tính đa nghĩa. Tuy nhiên lớp nghĩa trung tâm, ở đáy sâu của biểu tượng này vẫn là nghĩa biểu trưng về sự bất tận của tình thương và niềm tin cuộc sống. Điều này khiến câu chuyện cho dù thiếu vắng ánh sáng, cho dù diễn ra trong nền cảnh màu xám của các cơn mộng và nhân vật bất tận những nỗi đau thì nó vẫn gieo một niềm tin vào lòng cuộc sống. Đó là cái nhìn về phía trước của những người sống tận đáy cùng của xã hội, những người mà định mệnh luôn trói chặt với những đau thương, khốn khổ. “Không có những hạt mầm tốt gieo vào lòng đất thì trên những “cánh đồng bất tận” mãi mãi chỉ có nắng nung người, gió cháy da, chất phèn chua lét, đàn vịt cọc còi và những người đàn bà… làm đĩ. May thay, hạt mầm đã có và được gieo không bởi tuyên ngôn của các vĩ nhân mà là được gieo bởi những kẻ khốn cùng trong xã hội” (Đoàn Nhã Văn). Và phải chăng đây là bài học cuối cùng có thể rút ra từ “Cánh đồng bất tận”, bài học về nhân cách tác giả, sự dũng cảm dấn thân hướng đến Chân – Thiện – Mỹ.</p><p></p><p></p><p>3.2. Để làm nổi bật biểu tượng “cánh đồng” trong thiên truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã đi đến tận cùng những thể nghiệm trong bút pháp của mình: loại bỏ tầm quan trọng của sự kiện để đào sâu vào tâm lí và cảm xúc. Mặt khác chị đặt nhân vật của mình vào trong những bối cảnh có tính tương phản cao: con thuyền nhỏ bé giữa mênh mông nước trắng, giữa bùn đất đặc quánh và cánh đồng “vắng bóng người lúa rày mọc hoang” cũng là để cho nhân vật cảm nhận chất thơ của cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực trong sự ấm cúng của một triền sông nước.</p><p></p><p></p><p>Như vậy, “cánh đồng” có thể là một không gian xác định nhưng “cánh đồng bất tận” lại là không xác định, không giới hạn, không phương hướng, đó là sự bất tận của nỗi đau con người trong cảm thức lưu lạc, đó là sự bất tận của tình yêu con người, sự trân trọng giá trị con người và niềm tin vào cuộc sống. Trong đó, sự bất tận của tình yêu con người, sự khát khao, cháy bỏng hãy bảo vệ, giữ gìn những giá trị người chính là chiều sâu nhân bản của tác phẩm.</p><p></p><p></p><p>Kết luận</p><p></p><p></p><p>Biểu tượng “cánh đồng” là một trong những biểu tượng văn xuôi mà Nguyễn Ngọc Tư đã khai thác từ nét biểu cảm của vùng sông nước. Đây là biểu tượng có tính đa nghĩa. Nó phản ánh một lối tư duy thể nghiệm trong sáng tác, một hình ảnh Nguyễn Ngọc Tư từng trải, đau đớn và xót xa. Cánh đồng cùng với “Cánh đồng bất tận” mãi mãi cho chúng ta sự thấm thía về tình người, niềm đau và nỗi buồn, mãi mãi để lại trong lòng chúng ta một giọng điệu Nguyễn Ngọc Tư dung dị mà thấu đáo, thẩm thấu lắng sâu vào bên trong với dòng cảm xúc suy tư bất tận nhưng cũng không kém phần tinh tế và nhạy cảm trước những biến thái của cuộc đời. Với “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư hứa hẹn những thành công mới. Đó cũng là chỉ dấu của cuốn sách sắp sang trang./.</p><p></p><p></p><p>TÀI LIỆU THAM KHẢO</p><p></p><p></p><p>1. Nguyễn Thị Ngân Hoa “Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam” – Luận án tiến sĩ Ngữ văn. Viện Ngôn ngữ học. Hà Nội. 2005.</p><p></p><p></p><p>2. Nguyễn Thái Hoà “Từ điển tu từ – Phong cách thi pháp học”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005</p><p></p><p></p><p>3. Nguyễn Ngọc Tư “Cánh đồng bất tận”. NXB Trẻ. 2006.</p><p></p><p></p><p>(Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Ngôn ngữ và văn học toàn quốc, tr.931-939, 2013)</p><p></p><p><em>Hi vọng bài viết trên đã phần nào giúp bạn hiểu hơn về tác phẩm này của Nguyễn Ngọc Tư. Bạn có thể tìm thêm những tác phẩm khác để đọc nha. Mỗi tác phẩm sẽ cho bạn những trải nghiệm đáng quý. Có thể bạn sẽ trở thành một fan ruột của chị Tư </em></p><p><em></em></p><p><em></em></p><p><em></em></p><p><em></em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Áo Dài, post: 194098, member: 317449"] 2.2.2. Cánh đồng – tình thương và niềm tin Biểu tượng “cánh đồng” trong “Cánh đồng bất tận” chứa đựng những nỗi buồn chan chứa, tuy nhiên nỗi buồn ấy không làm ta bi quan mà cuồn cuộn khát khao được sống, được làm người. Bởi vì lớn hơn hết thảy “cánh đồng” còn là biểu tượng của tình thương, lòng nhân ái, niềm tin và những gì thuộc về giá trị nhân bản. Đó là tình thương của hai chị em với người đàn bà tên Sương, tình thương của người cha đã tạo ra những tội lỗi bởi lòng thù hận với người vợ phụ tình nhưng vẫn lờ mờ cảm thấy trách nhiệm đối với hai đứa con. Cái chi tiết ông mua cho đứa con gái cái nhẫn để dành cho đám cưới cũng như việc “cởi cái áo trên người để đắp lên cho đứa con gái. Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới ánh mặt trời” cho thấy tình thương và sự hối hận của người làm cha đã sống dậy. Theo chúng tôi, cánh đồng là biểu tượng của tình thương đặc biệt gắn liền với nhân vật Điền trong tác phẩm. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Ngọc Tư đặt cho nhân vật tên là Điền (nghĩa từ nguyên là ruộng, gần gũi với cánh đồng). Điền là một biểu tượng chứa đựng ẩn ý của tác giả trong quá trình khái quát hoá nghệ thuật. Tác giả đã để nhân vật tôi thổ lộ thế này “Tôi nhớ Điền, bao gồm nhớ một đồng loại (còn tôi là đồng loại còn lại), nhớ một cách trò chuyện (đọc thấu lòng nhau), nhớ người nghe được tiếng tim mình (điều này thì con vịt mù làm được, nhưng nó đã chết rồi), nhớ một người che chở (công việc này đáng nhẽ của ba, má tôi) ”. Đó chính là “đặc trưng” của Điền biết trân trọng, thấu hiểu, có tình yêu thương, ý thức che chở, giúp đỡ người khác nên là biểu tượng cho tình yêu thương, giá trị nhân bản. Theo chúng tôi, cách xây dựng biểu tượng “cánh đồng” ở đây đã dựa trên sự song trùng đặc điểm, tính chất giữa tên truyện và tên nhân vật. Đây không chỉ là nét riêng của truyện ngắn này mà có thể coi là một đặc điểm thi pháp của Nguyễn Ngọc Tư. Như vậy, nội hàm của biểu tượng “cánh đồng” ở đây chính là lòng yêu thương, tình nhân ái, sự trân trọng giá trị con người. Song có một điều cần lưu ý là trong quá trình xây dựng biểu tượng, tác giả đã làm mờ nhoè ranh giới giữa cái Thiện và cái Ác, cái Tốt và cái Xấu, cái đáng trân trọng và cái đáng lên án. Nói khác đi là có sự tồn tại và đan xen đồng thời những phạm trù đối lập, cái nhân bản buộc phải chung sống và chứng nhận sự tha hoá, băng hoại. Biểu tượng “cánh đồng” cũng vì thế không trực diện mà ẩn sâu trong tâm trạng giằng xé trước hiện thực cuộc sống bộn bề. Y nghĩa rút ra từ biểu tượng chính là sự khát khao, lòng mong mỏi đến thiết tha, cháy bỏng (bất tận) rằng hãy bảo vệ, giữ gìn những giá trị người, hãy chống lại sự tha hoá con người. Đó cũng là chiều sâu nhân bản của tác phẩm. Điều đó lí giải vì sao chi tiết cuối cùng của thiên truyện, cái chi tiết đứa con gái vừa bị làm nhục đến nhàu nhừ vẫn ánh lên niềm tin và khát vọng. Trong cơn đau vật vã thể xác, nhân vật “tôi” vẫn chứng tỏ bản lĩnh không cam chịu “không để cảm giác đau tiếc làm mình lịm vào chết”. Cái mầm thiện trong trái tim nhân vật “tôi” dù ngập trong máu nhưng nước mắt vẫn bừng xanh niềm hivọng sâu sắc thiêng liêng: nếu như “bị có con” sau cuộc bạo hành thì “đứa bé không cha nhưng chắc chắn sẽ được đến trường” sẽ sống hạnh phúc “vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”. Cho nên có thể nói, biểu tượng “cánh đồng” là biểu tượng về nỗi khắc khoải của số phận con người nhưng cũng chính là biểu tượng về niềm tin vào lòng cuộc sống “bất tận”. Nguyễn Ngọc Tư đến phút cuối đã để cho những thù hận qua đi, những vết thương được cánh đồng mênh mông nước trắng làm cho lành lại, cho bùn đất dịt vào da thịt để cảm nhận sự bất tận của nỗi đau và của tình yêu thương. 2.2.3. Cánh đồng – nỗi nhớ và thời gian Biểu tượng “cánh đồng” trong “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư còn là biểu tượng cho nỗi nhớ và dòng thời gian trôi chảy. Có thể nói nỗi nhớ ngập tràn qua mỗi trang truyện. Bắt đầu từ nỗi nhớ mẹ “niềm nhớ lúc đi xa…”, nhớ lớp “Hai nhớ trường học quá à, cưng”, nhớ em, nhớ chị “tôi nhớ nó (tức Điền) và nhớ chị không thôi”, nhớ con người, nhớ bóng người, nhớ một đồng loại, nhớ một người che chở, nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa… như những lớp sóng cồn cào… Tất cả những nỗi nhớ ấy cứ vang xa, khắc khoải và day dứt. Nó thấm vào ta, lan toả quanh ta: từ nỗi nhớ cụ thể, gần gũi đến những nỗi nhớ thương lớn lao, vời xa về con người, về đồng loại. Tất cả những nỗi nhớ ấy suy cho cùng là nỗi nhớ về quá khứ, về không gian cánh đồng đã có từ thời “miên viễn” mà nay đã “trở thành đô thị” “ngoa ngoắt thay đổi vị của nước” “từ ngọt sang mặn chát” “những cánh đồng vắng bóng người và lúa rày mọc hoang”. “Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần. Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã tự làm quẩn chân mình vì không thể quay lại những cánh đồng cũ (với người quen cũ). Điều này cho thấy các cánh đồng đã bị khai thác đến kiệt quệ, bị xâm thực, bị lãng quên… đã nghiễm nhiên bị tước mất khả năng dâng hiến cho con người những mùa màng bội thu. Đứng trước hiện thực cánh đồng miền Nam một thời mỡ màu, trù phú đang chịu những tác động thô bạo bởi lòng tham và sự mù quáng của con người… có cần gióng lên hồi chuông báo động? Ý nghĩa thời sự của tác phẩm phải chăng một phần được đọng lại ở cách xây dựng biểu tượng như thế? Như vậy rõ ràng “cánh đồng” còn biểu trưng cho nỗi nhớ và dòng thời gian trôi chảy, nỗi nhớ về cánh đồng của niềm thương, nỗi đau, của tình yêu quặn thắt nơi người kể chuyện. Cái ý nghĩa biểu trưng này cho đến cuối cùng thiên truyện mới được hé lộ. Bởi Nguyễn Ngọc Tư đã viết cái đề tài mà chị khai thác theo một cách khác. Từ những làng quê yên ổn cầm chừng trong sự đói nghèo, đã có những cuộc ra đi, những con người ra đi đến nơi chốn thị thành rợn ngợp. Chính nó tạo nên một khoảng trống trong tâm hồn người ở lại, một cái gì đó cựa quậy, bất an. Nhưng chị không kể chuyện của người ra đi mà kể câu chuyện của người ở lại trong tiếng gọi khản giọng và cái nhìn khắc khoải. Sự chờ đợi trong khoảng không u buồn, tĩnh mịch vẫn rợn ngợp mênh mông và thấm vào da thịt. Nhưng rồi rốt cuộc, chính họ (những người chờ đợi) lại phải ra đi, không phải do không còn chịu đựng sự ngưng đọng của thời gian, không phải cảm giác bị bỏ rơi mà là cảm giác đã đánh mất hạnh phúc mong manh cần được chăm chút, nâng niu, đánh mất những khao khát bị sự yên ổn cầm chừng che giấu. Họ bước vào cuộc kiếm tìm đau đáu nhưng vô vọng trong khao khát giã từ lưu lạc. Cho nên nỗi nhớ ở đây vừa xót xa vừa thấm thía tình người. 3. Nhận xét 3.1. Qua khảo sát tần số xuất hiện của biểu tượng “cánh đồng” và các nghĩa biểu trưng của nó, chúng tôi nhận thấy biểu tượng này mang tính đa nghĩa. Tuy nhiên lớp nghĩa trung tâm, ở đáy sâu của biểu tượng này vẫn là nghĩa biểu trưng về sự bất tận của tình thương và niềm tin cuộc sống. Điều này khiến câu chuyện cho dù thiếu vắng ánh sáng, cho dù diễn ra trong nền cảnh màu xám của các cơn mộng và nhân vật bất tận những nỗi đau thì nó vẫn gieo một niềm tin vào lòng cuộc sống. Đó là cái nhìn về phía trước của những người sống tận đáy cùng của xã hội, những người mà định mệnh luôn trói chặt với những đau thương, khốn khổ. “Không có những hạt mầm tốt gieo vào lòng đất thì trên những “cánh đồng bất tận” mãi mãi chỉ có nắng nung người, gió cháy da, chất phèn chua lét, đàn vịt cọc còi và những người đàn bà… làm đĩ. May thay, hạt mầm đã có và được gieo không bởi tuyên ngôn của các vĩ nhân mà là được gieo bởi những kẻ khốn cùng trong xã hội” (Đoàn Nhã Văn). Và phải chăng đây là bài học cuối cùng có thể rút ra từ “Cánh đồng bất tận”, bài học về nhân cách tác giả, sự dũng cảm dấn thân hướng đến Chân – Thiện – Mỹ. 3.2. Để làm nổi bật biểu tượng “cánh đồng” trong thiên truyện, Nguyễn Ngọc Tư đã đi đến tận cùng những thể nghiệm trong bút pháp của mình: loại bỏ tầm quan trọng của sự kiện để đào sâu vào tâm lí và cảm xúc. Mặt khác chị đặt nhân vật của mình vào trong những bối cảnh có tính tương phản cao: con thuyền nhỏ bé giữa mênh mông nước trắng, giữa bùn đất đặc quánh và cánh đồng “vắng bóng người lúa rày mọc hoang” cũng là để cho nhân vật cảm nhận chất thơ của cuộc sống nhọc nhằn, cơ cực trong sự ấm cúng của một triền sông nước. Như vậy, “cánh đồng” có thể là một không gian xác định nhưng “cánh đồng bất tận” lại là không xác định, không giới hạn, không phương hướng, đó là sự bất tận của nỗi đau con người trong cảm thức lưu lạc, đó là sự bất tận của tình yêu con người, sự trân trọng giá trị con người và niềm tin vào cuộc sống. Trong đó, sự bất tận của tình yêu con người, sự khát khao, cháy bỏng hãy bảo vệ, giữ gìn những giá trị người chính là chiều sâu nhân bản của tác phẩm. Kết luận Biểu tượng “cánh đồng” là một trong những biểu tượng văn xuôi mà Nguyễn Ngọc Tư đã khai thác từ nét biểu cảm của vùng sông nước. Đây là biểu tượng có tính đa nghĩa. Nó phản ánh một lối tư duy thể nghiệm trong sáng tác, một hình ảnh Nguyễn Ngọc Tư từng trải, đau đớn và xót xa. Cánh đồng cùng với “Cánh đồng bất tận” mãi mãi cho chúng ta sự thấm thía về tình người, niềm đau và nỗi buồn, mãi mãi để lại trong lòng chúng ta một giọng điệu Nguyễn Ngọc Tư dung dị mà thấu đáo, thẩm thấu lắng sâu vào bên trong với dòng cảm xúc suy tư bất tận nhưng cũng không kém phần tinh tế và nhạy cảm trước những biến thái của cuộc đời. Với “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư hứa hẹn những thành công mới. Đó cũng là chỉ dấu của cuốn sách sắp sang trang./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Ngân Hoa “Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam” – Luận án tiến sĩ Ngữ văn. Viện Ngôn ngữ học. Hà Nội. 2005. 2. Nguyễn Thái Hoà “Từ điển tu từ – Phong cách thi pháp học”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005 3. Nguyễn Ngọc Tư “Cánh đồng bất tận”. NXB Trẻ. 2006. (Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Ngôn ngữ và văn học toàn quốc, tr.931-939, 2013) [I]Hi vọng bài viết trên đã phần nào giúp bạn hiểu hơn về tác phẩm này của Nguyễn Ngọc Tư. Bạn có thể tìm thêm những tác phẩm khác để đọc nha. Mỗi tác phẩm sẽ cho bạn những trải nghiệm đáng quý. Có thể bạn sẽ trở thành một fan ruột của chị Tư [/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Biểu tượng cánh đồng trong "Cánh đồng bất tận" của Nguyễn Ngọc Tư
Top