Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Các Nền Văn minh Thế Giới
Văn Hóa Thế Giới
Bản sắc văn hoá - tính tương đối của sự đa dạng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 19748" data-attributes="member: 7"><p><strong>IV. Sự mập mờ của những đường biên giới</strong></p><p></p><p> Xu hướng toàn cầu hoá đang làm nhiều đường ranh giới mờ đi nhanh chóng - lời khẳng định này chúng ta gặp nhan nhản trên báo chí và không phải là không đúng đắn. Nhưng quá trình này thực ra không có gì mới, nó bắt đầu từ thửa xa xưa, dưới những hình thức và trên những cấp độ khác nhau. Có vô số các đường ranh giới được con người đã tạo nên để phân định giới hạn của các cộng đồng: địa lý, tôn giáo, kinh tế, chính trị...Chúng hoàn toàn không rạch ròi như chúng ta thường nghĩ. </p><p></p><p> Chúng hãy thữ xem xét các ranh giới địa lý. Thế giới cổ đại, chẳng hạn, là một khái niệm hay được dùng nhưng thực ra không được chính xác cho lắm. Một mặt, trên thực tế, vào thời kỳ đó tồn tại không phải một thế giới thống nhất mà rất nhiều thế giới, một số trong đó, do những điều kiện địa lý đặc biệt - như thế giới những nền văn minh ở Châu Mỹ hay châu Ðại Dương - gần như biệt lập. Nhưng chúng không phải là không tồn tại trước những phát kiến địa lý vĩ đại do người châu Âu thực hiện. Những nền văn minh ấy vẫn sống cuộc sống của nó, với những quan hệ phức tạp của nó và đạt được những thành tựu cực kỳ độc đáo. </p><p></p><p> Một hệ thống quốc tế thống nhất - theo cách hiểu của chúng ta ngày nay, tức là một chỉnh thể phức tạp bao gồm nhiều mặt của đời sống nhân loại trên trái đất, trong đó quan trọng nhất là cấu trúc, phương thức tồn tại, hình thức phát triển và tính thống nhất của nó, một cấu trúc ít nhiều bền vững nhờ các quy tắc, trật tự nhất định - rõ ràng không phải bao giờ cũng tồn tại. Trái lại, thời cổ đại trên trái đất đã tồn tại nhiều hệ thống như thế, những hệ thống có trật tự riêng, khá biệt lập nhưng không có nhiều chênh lệch lắm về trình độ như những đầu óc mịêt thị chủng tộc vẫn rêu rao. Như thế, đúng ra, thay cho khái niệm thế giới cổ đại chúng ta phải dùng một khái niệm khác chính xác hơn - những tiểu thế giới. </p><p></p><p> Nhưng mặt khác, mỗi hệ thống như thế, đến lượt nó, lại bao gồm nhiều nền văn hoá đa dạng, không ngừng biến đổi, tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Những nền văn hoá trong mỗi hệ thống như thế đôi khi còn khác nhau nhiều hơn cả sự khác nhau giữa các hệ thỗng mà chúng ta vừa gọi là những tiểu thế giới. Vì thế, ngay cả khái niệm "tiểu thế giới" này cũng chỉ có thể cho chúng ta một cách hình dung mù mờ về bản chất của những mối quan hệ giữa các khu vực, các quốc gia lớn nhỏ, những quốc gia đang hình thành và cả những "quốc gia" đang sắp sửa ra đời trong đó. Vùng Ðông á, chẳng hạn, có thể coi như một tiểu thế giới mà trong lòng nó gồm Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, các nước khác ở khu vực Ðông Nam á...Nhưng bản thân Trung Hoa cũng luôn luôn tự nhìn nhận mình - và điều này hoàn toàn có lý - như một thế giới, thậm chí như là trung tâm thế giới. Chưa hết, ngay cả các quốc gia nhỏ hơn như Việt Nam cũng có xu hướng tự coi mình là một thế giới: "Núi sông bờ cõi đã chia... " </p><p></p><p> Như thế, trong suốt hàng ngàn năm của thời Cổ Ðại và Trung Cổ, các quốc gia thực chất đã trở thành những thế giới riêng biệt, tự đóng kín. Phần lớn các quốc gia dần dần trở nên những cộng đồng cận thị và tự mãn. Xu hướng đó tiếp tục hệt như kiểu con búp bê Petruska của người Nga: thậm chí ngay cả trong một quốc gia, tình trạng cát cứ cũng trở nên một điều hết sức hiển nhiên. Hai làng sát nhau là hai thế giới. Cuối cùng, trong mỗi làng, các dòng họ dường như cũng là các cộng đồng hoàn biệt lập. Ðiều đó kéo dài và còn có xu hướng tăng lên cho đến cách đây không lâu lắm. </p><p></p><p> Nhưng điều cần phải nói là sự tách biệt như vậy hoàn toàn không phải là do những ranh giới địa lý, mà là do những hạn chế của nền sản xuất. Nó cũng chủ yếu mang sắc thái tâm lý và ước lệ. Các đường biên giới, cho dù là ranh giới địa lý, sắc tộc, kinh tế hay chính trị đã thay đổi rất nhiều sau vô vàn biến cố tự nhiên cũng như xã hội, các cộng đồng cũng sinh ra, phát triển, tương tác và thôn tính lẫn nhau, còn con người vẫn còn lại với núi sông và không vì thế mà khác đi được. Ðỗ Phủ, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Ðường, viết: "Quốc phá sơn hà tại". Ðiều đó là hợp với quy luật: Biên giới không phải là thứ hình thành một cách tự nhiên mà là sản phẩm của các cộng đồng người. Khi không phù hợp, nó phải thayđổi, khi không cần thiết nữa, nó sẽ bị xóa bỏ. </p><p> Nhưng chưa bao giờ các đường biên giới bị biến đổi nhanh chóng như trong thời đại ngày nay. Toàn cầu hoá diễn ra sôi sục không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hoá. Những mối quan hệ chằng chịt, những dòng luân chuyển không ngừng của cả con người lẫn vật chất khiến cho những đường biên giới vốn đã rất mập mờ càng trở nên rất đáng ngờ. Tôi lấy một ví dụ vấn đề quốc tịch. Cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Argentina Maradona kể rằng anh đã từ chối khi được đề nghị nhập quốc tịch vào một nước phương Tây. Giả sử anh đồng ý, liệu có thể hình dung việc chỉ sau một chữ ký, anh đã không còn là người Argentina? Và liệu có thể hình dung rằng sau này, khi nói về bản sắc của nền bóng đã Argentina, người ta còn có quyền nói về cầu thủ tài hoa đó nữa? </p><p></p><p> Ðó là một ví dụ khá trực quan, nhưng có nhiều ví dụ khó nhận thấy hơn nhưng từ lâu đã trở thành phổ biến, chẳng hạn những khu nhà ở Paris hoặc New York lại thuộc về người Nhật, những công ty Châu Âu thực chất lại do người Mỹ nắm hay những con tàu Ðài Loan mang cờ hiệu Panama...Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn đa quốc gia, ngay cả việc xác định xuất xứ hàng hoá cũng trở nên phức tạp, đôi khi không thể làm nổi. Ðối với những quốc gia như Nhật Bản, biên giới kinh tế của họ mở rộng hơn rất nhiều so với biên giới địa lý. Ðối với Trung Quốc, biên giới văn hoá dường như được kéo dài đến theo bước chân di cư của cộng đồng người Hoa trên khắp địa cầu. Càng ngày các tập đoàn đa quốc gia càng được nhìn nhận như một loại quốc gia đặc biệt tồn tại ngoài vòng kiểm soát của các nhà nước... </p><p></p><p> Quá trình di dân ngày càng tăng lên cũng khiến cho vấn đề thêm trầm trọng. Càng ngày càng có nhiều cặp vợ chồng khác quốc tịch, khác màu da và tiếng nói. Càng ngày càng có nhiều trẻ con lai và chúng trở thành những cầu nối chằng chịt giữa các cộng đồng, giữa các nền văn hoá. Chúng ta có thể hình dung một ngày nào đó đa số nhân loại sẽ là những người lai, nhưng ngay từ bây giờ thì cũng đã rất khó xác định bản sắc văn hoá của họ. Một đứa trẻ bố Pháp mẹ Việt là người Pháp hay người Việt? Phải chăng câu trả phụ thuộc vào nơi sinh sống và ngôn ngữ của đứa trẻ. Nhưng trong trường hợp nó sinh ra và lớn lên ở một nước thứ ba thì sao? </p><p></p><p> Tuy nhiên, có một loại đường biên giới không những không mờ đi mà còn sinh sôi nảy nở - đó là những hàng rào định kiến. Trong một cuộc phỏng vấn nhân Ngày hội văn hoá Việt Nam tổ chức ở Berlin năm 2000, người ta hỏi tôi, với tư cách một nhà văn từng lớn lên dưới bom đạn Mỹ, nghĩ gì về cuộc chiến ở Kosovo. Tôi đã trả lời đại ý rằng chúng ta từng hy vọng nhân loại trưởng thành hơn sau chiến tranh tranh lạnh, nhưng rồi nhân loại vẫn không trưởng thành hơn. Quả thật, những ám ảnh của thời đó vẫn còn đeo đuổi chúng ta. Là người đã học ở Liên Xô trước Perestroika, đồng thời từng học ở Pháp và có nhiều dịp tiếp xúc với các quốc gia phương Tây khác, nghĩa là có dịp qua lại giữa hai bờ của dòng sông ý thức hệ từng chia đôi thế giới trong thời kỳ chiến tranh lạnh, tôi nhận thấy rằng trong hình ảnh mà chúng ta nhìn nhận lẫn nhau, định kiến vẫn còn che mờ lòng khoan dung và thiện chí. </p><p> Nhưng tôi xin nói về một hiện tượng khác, trong một lĩnh vực gần gũi đối với tôi, đó là văn học. Cho đến nay, có rất ít nhà văn thế giới thứ ba được nhận giải Nobel. Theo tôi, ngoài lý do kinh tế - lý do khiến tác phẩm của các nhà văn thế giới thứ ba ít được dịch sang các thứ tiếng châu Âu, nhất là tiếng Anh và tiếng Pháp, hoặc nếu có thì việc dịch thuật chủ yếu dựa vào những người lưu vong, thường lựa chọn tác phẩm theo những thiên kiến chính trị hơn là theo chất lượng nghệ thuật - thì lý do chính là thái độ xem thường của độc giả các nước Âu Mĩ giầu sang đối với văn học của các nước nghèo. Nếu người ta đọc họ thì thường là để nghiên cứu, chứ hoàn toàn không phải là để thưởng thức. Một người Trung Quốc không thể được coi là hiểu biết nếu chưa đọc Hugo, Balzac, nhưng một giáo sư văn học người Pháp vẫn có thể được coi là uyên bác mà không cần phải đọc Tư Mã Thiên hay Lý Bạch, trừ phi ông ta là chuyên gia về văn học Trung Quốc. Người đọc ở các nước phương Tây đã có sẵn những hình dung về các quốc gia khác, nhất là các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Trên thực tế họ chỉ đọc để khẳng định những hình dung sẵn có của mình, vì thế họ sẵn sàng quy những ý kiến khác là phụ hoạ chính trị hay giả dối. </p><p> Tóm lại, đối với người đọc Âu Mỹ, các dân tộc khác không những phải khác họ mà còn phải khác họ theo cách thức mà họ muốn. Ở đây chúng ta lại trở lại với huyền thoại về kẻ khác với những bức chân dung đầy định kiến dành cho người đối thoại, trong đó đặc điểm đầu tiên của người khác là phải khác. Trong nhiều trường hợp, tình hình còn tồi tệ hơn thế nữa: kẻ khác không chỉ phải khác mà còn phải thấp kém hơn.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 19748, member: 7"] [B]IV. Sự mập mờ của những đường biên giới[/B] Xu hướng toàn cầu hoá đang làm nhiều đường ranh giới mờ đi nhanh chóng - lời khẳng định này chúng ta gặp nhan nhản trên báo chí và không phải là không đúng đắn. Nhưng quá trình này thực ra không có gì mới, nó bắt đầu từ thửa xa xưa, dưới những hình thức và trên những cấp độ khác nhau. Có vô số các đường ranh giới được con người đã tạo nên để phân định giới hạn của các cộng đồng: địa lý, tôn giáo, kinh tế, chính trị...Chúng hoàn toàn không rạch ròi như chúng ta thường nghĩ. Chúng hãy thữ xem xét các ranh giới địa lý. Thế giới cổ đại, chẳng hạn, là một khái niệm hay được dùng nhưng thực ra không được chính xác cho lắm. Một mặt, trên thực tế, vào thời kỳ đó tồn tại không phải một thế giới thống nhất mà rất nhiều thế giới, một số trong đó, do những điều kiện địa lý đặc biệt - như thế giới những nền văn minh ở Châu Mỹ hay châu Ðại Dương - gần như biệt lập. Nhưng chúng không phải là không tồn tại trước những phát kiến địa lý vĩ đại do người châu Âu thực hiện. Những nền văn minh ấy vẫn sống cuộc sống của nó, với những quan hệ phức tạp của nó và đạt được những thành tựu cực kỳ độc đáo. Một hệ thống quốc tế thống nhất - theo cách hiểu của chúng ta ngày nay, tức là một chỉnh thể phức tạp bao gồm nhiều mặt của đời sống nhân loại trên trái đất, trong đó quan trọng nhất là cấu trúc, phương thức tồn tại, hình thức phát triển và tính thống nhất của nó, một cấu trúc ít nhiều bền vững nhờ các quy tắc, trật tự nhất định - rõ ràng không phải bao giờ cũng tồn tại. Trái lại, thời cổ đại trên trái đất đã tồn tại nhiều hệ thống như thế, những hệ thống có trật tự riêng, khá biệt lập nhưng không có nhiều chênh lệch lắm về trình độ như những đầu óc mịêt thị chủng tộc vẫn rêu rao. Như thế, đúng ra, thay cho khái niệm thế giới cổ đại chúng ta phải dùng một khái niệm khác chính xác hơn - những tiểu thế giới. Nhưng mặt khác, mỗi hệ thống như thế, đến lượt nó, lại bao gồm nhiều nền văn hoá đa dạng, không ngừng biến đổi, tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau. Những nền văn hoá trong mỗi hệ thống như thế đôi khi còn khác nhau nhiều hơn cả sự khác nhau giữa các hệ thỗng mà chúng ta vừa gọi là những tiểu thế giới. Vì thế, ngay cả khái niệm "tiểu thế giới" này cũng chỉ có thể cho chúng ta một cách hình dung mù mờ về bản chất của những mối quan hệ giữa các khu vực, các quốc gia lớn nhỏ, những quốc gia đang hình thành và cả những "quốc gia" đang sắp sửa ra đời trong đó. Vùng Ðông á, chẳng hạn, có thể coi như một tiểu thế giới mà trong lòng nó gồm Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, các nước khác ở khu vực Ðông Nam á...Nhưng bản thân Trung Hoa cũng luôn luôn tự nhìn nhận mình - và điều này hoàn toàn có lý - như một thế giới, thậm chí như là trung tâm thế giới. Chưa hết, ngay cả các quốc gia nhỏ hơn như Việt Nam cũng có xu hướng tự coi mình là một thế giới: "Núi sông bờ cõi đã chia... " Như thế, trong suốt hàng ngàn năm của thời Cổ Ðại và Trung Cổ, các quốc gia thực chất đã trở thành những thế giới riêng biệt, tự đóng kín. Phần lớn các quốc gia dần dần trở nên những cộng đồng cận thị và tự mãn. Xu hướng đó tiếp tục hệt như kiểu con búp bê Petruska của người Nga: thậm chí ngay cả trong một quốc gia, tình trạng cát cứ cũng trở nên một điều hết sức hiển nhiên. Hai làng sát nhau là hai thế giới. Cuối cùng, trong mỗi làng, các dòng họ dường như cũng là các cộng đồng hoàn biệt lập. Ðiều đó kéo dài và còn có xu hướng tăng lên cho đến cách đây không lâu lắm. Nhưng điều cần phải nói là sự tách biệt như vậy hoàn toàn không phải là do những ranh giới địa lý, mà là do những hạn chế của nền sản xuất. Nó cũng chủ yếu mang sắc thái tâm lý và ước lệ. Các đường biên giới, cho dù là ranh giới địa lý, sắc tộc, kinh tế hay chính trị đã thay đổi rất nhiều sau vô vàn biến cố tự nhiên cũng như xã hội, các cộng đồng cũng sinh ra, phát triển, tương tác và thôn tính lẫn nhau, còn con người vẫn còn lại với núi sông và không vì thế mà khác đi được. Ðỗ Phủ, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Ðường, viết: "Quốc phá sơn hà tại". Ðiều đó là hợp với quy luật: Biên giới không phải là thứ hình thành một cách tự nhiên mà là sản phẩm của các cộng đồng người. Khi không phù hợp, nó phải thayđổi, khi không cần thiết nữa, nó sẽ bị xóa bỏ. Nhưng chưa bao giờ các đường biên giới bị biến đổi nhanh chóng như trong thời đại ngày nay. Toàn cầu hoá diễn ra sôi sục không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hoá. Những mối quan hệ chằng chịt, những dòng luân chuyển không ngừng của cả con người lẫn vật chất khiến cho những đường biên giới vốn đã rất mập mờ càng trở nên rất đáng ngờ. Tôi lấy một ví dụ vấn đề quốc tịch. Cầu thủ bóng đá nổi tiếng người Argentina Maradona kể rằng anh đã từ chối khi được đề nghị nhập quốc tịch vào một nước phương Tây. Giả sử anh đồng ý, liệu có thể hình dung việc chỉ sau một chữ ký, anh đã không còn là người Argentina? Và liệu có thể hình dung rằng sau này, khi nói về bản sắc của nền bóng đã Argentina, người ta còn có quyền nói về cầu thủ tài hoa đó nữa? Ðó là một ví dụ khá trực quan, nhưng có nhiều ví dụ khó nhận thấy hơn nhưng từ lâu đã trở thành phổ biến, chẳng hạn những khu nhà ở Paris hoặc New York lại thuộc về người Nhật, những công ty Châu Âu thực chất lại do người Mỹ nắm hay những con tàu Ðài Loan mang cờ hiệu Panama...Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn đa quốc gia, ngay cả việc xác định xuất xứ hàng hoá cũng trở nên phức tạp, đôi khi không thể làm nổi. Ðối với những quốc gia như Nhật Bản, biên giới kinh tế của họ mở rộng hơn rất nhiều so với biên giới địa lý. Ðối với Trung Quốc, biên giới văn hoá dường như được kéo dài đến theo bước chân di cư của cộng đồng người Hoa trên khắp địa cầu. Càng ngày các tập đoàn đa quốc gia càng được nhìn nhận như một loại quốc gia đặc biệt tồn tại ngoài vòng kiểm soát của các nhà nước... Quá trình di dân ngày càng tăng lên cũng khiến cho vấn đề thêm trầm trọng. Càng ngày càng có nhiều cặp vợ chồng khác quốc tịch, khác màu da và tiếng nói. Càng ngày càng có nhiều trẻ con lai và chúng trở thành những cầu nối chằng chịt giữa các cộng đồng, giữa các nền văn hoá. Chúng ta có thể hình dung một ngày nào đó đa số nhân loại sẽ là những người lai, nhưng ngay từ bây giờ thì cũng đã rất khó xác định bản sắc văn hoá của họ. Một đứa trẻ bố Pháp mẹ Việt là người Pháp hay người Việt? Phải chăng câu trả phụ thuộc vào nơi sinh sống và ngôn ngữ của đứa trẻ. Nhưng trong trường hợp nó sinh ra và lớn lên ở một nước thứ ba thì sao? Tuy nhiên, có một loại đường biên giới không những không mờ đi mà còn sinh sôi nảy nở - đó là những hàng rào định kiến. Trong một cuộc phỏng vấn nhân Ngày hội văn hoá Việt Nam tổ chức ở Berlin năm 2000, người ta hỏi tôi, với tư cách một nhà văn từng lớn lên dưới bom đạn Mỹ, nghĩ gì về cuộc chiến ở Kosovo. Tôi đã trả lời đại ý rằng chúng ta từng hy vọng nhân loại trưởng thành hơn sau chiến tranh tranh lạnh, nhưng rồi nhân loại vẫn không trưởng thành hơn. Quả thật, những ám ảnh của thời đó vẫn còn đeo đuổi chúng ta. Là người đã học ở Liên Xô trước Perestroika, đồng thời từng học ở Pháp và có nhiều dịp tiếp xúc với các quốc gia phương Tây khác, nghĩa là có dịp qua lại giữa hai bờ của dòng sông ý thức hệ từng chia đôi thế giới trong thời kỳ chiến tranh lạnh, tôi nhận thấy rằng trong hình ảnh mà chúng ta nhìn nhận lẫn nhau, định kiến vẫn còn che mờ lòng khoan dung và thiện chí. Nhưng tôi xin nói về một hiện tượng khác, trong một lĩnh vực gần gũi đối với tôi, đó là văn học. Cho đến nay, có rất ít nhà văn thế giới thứ ba được nhận giải Nobel. Theo tôi, ngoài lý do kinh tế - lý do khiến tác phẩm của các nhà văn thế giới thứ ba ít được dịch sang các thứ tiếng châu Âu, nhất là tiếng Anh và tiếng Pháp, hoặc nếu có thì việc dịch thuật chủ yếu dựa vào những người lưu vong, thường lựa chọn tác phẩm theo những thiên kiến chính trị hơn là theo chất lượng nghệ thuật - thì lý do chính là thái độ xem thường của độc giả các nước Âu Mĩ giầu sang đối với văn học của các nước nghèo. Nếu người ta đọc họ thì thường là để nghiên cứu, chứ hoàn toàn không phải là để thưởng thức. Một người Trung Quốc không thể được coi là hiểu biết nếu chưa đọc Hugo, Balzac, nhưng một giáo sư văn học người Pháp vẫn có thể được coi là uyên bác mà không cần phải đọc Tư Mã Thiên hay Lý Bạch, trừ phi ông ta là chuyên gia về văn học Trung Quốc. Người đọc ở các nước phương Tây đã có sẵn những hình dung về các quốc gia khác, nhất là các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Trên thực tế họ chỉ đọc để khẳng định những hình dung sẵn có của mình, vì thế họ sẵn sàng quy những ý kiến khác là phụ hoạ chính trị hay giả dối. Tóm lại, đối với người đọc Âu Mỹ, các dân tộc khác không những phải khác họ mà còn phải khác họ theo cách thức mà họ muốn. Ở đây chúng ta lại trở lại với huyền thoại về kẻ khác với những bức chân dung đầy định kiến dành cho người đối thoại, trong đó đặc điểm đầu tiên của người khác là phải khác. Trong nhiều trường hợp, tình hình còn tồi tệ hơn thế nữa: kẻ khác không chỉ phải khác mà còn phải thấp kém hơn. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Các Nền Văn minh Thế Giới
Văn Hóa Thế Giới
Bản sắc văn hoá - tính tương đối của sự đa dạng
Top