BÀI VĂN ĐẠT ĐIỂM 10
Ngoài điểm 10 môn Văn của thí sinh Nguyễn Thị Thu Trang, còn một thí sinh khác được điểm 10 Văn nữa - đó là Nguyễn Thị Tâm, quê Thủy Nguyên, Hải Phòng. Khác với Thu Trang thi khối D, Tâm thi khối C vào Học viện Cảnh sát nhân dân. Chúng tôi trích đăng một phần bài thi của Nguyễn Thị Tâm để bạn đọc tham khảo.
* Câu 2 (5 điểm): Phân tích hai trích đoạn thơ:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm, Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.79)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha
(Đất nước, trích chương V trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm - Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.249-250)
Bài làm: Chưa bao giờ trong dòng chảy của Văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc đáo và xúc động viết về quê hương mình đã gắn bó trọn đời trọn kiếp, vậy mà chỉ viết trong một đêm. Thế nên tất cả những hình ảnh, những cảm xúc trong bài thơ đều là những hồi ức nóng bỏng, vừa là cháy đỏ yêu thương thắm nồng tình cảm vừa là ngùn ngụt chí căm thù quân xâm lược.
Đoạn trích:
"Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"
Đây là đoạn thơ mở đầu phần hai của bài thơ. Sau khi bộc lộ nỗi niềm nhớ tiếc về một dòng sông Đuống êm đềm, thanh bình nay đã trở thành quá khứ, thành nỗi xót xa đến "rụng bàn tay" nhà thơ tiếp tục hồi tưởng về quê hương với những giá trị truyền thống.
Mở đầu đoạn trích Bên kia sông Đuống vang lên như một lời giới thiệu. Nơi ấy là nơi nào? Đây chính là thôn Lạc Thổ - xã Song Hồ - huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh, nơi bờ nam sông Đuống của nhà thơ đang bị giặc chiếm đóng. Nơi ấy là nơi lưu giữ những hồi ức, những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm của tác giả giờ đây đã trở thành máu thịt của tâm hồn, trở thành một mảng ký ức của nỗi đau. Câu thơ ngắn gọn, chỉ có bốn từ vang lên như một tiếng gọi, gọi lòng thi sĩ trở về với quê hương đồng thời cũng như một tiếng lòng của thi sĩ, trở thành một nỗi đau day dứt ám ảnh. Thế nên điệp khúc Bên kia sông Đuống cứ lặp đi lặp lại trong suốt bài thơ.
Sau lời giới thiệu ấy một quê hương Kinh Bắc đã hiện ra với một truyền thống văn vật:
"Quê hương ta lúa nếp thơm nồng"
Bức tranh quê hương hiện lên với phong cảnh đồng ruộng, bát ngát, hương thơm bay thoang thoảng của lúa nếp. Đọc đến đây ta thấy quê hương của Hoàng Cầm có gì đó thật gần gũi với mọi làng quê Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng thốt lên:
"Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn"
(Bài thơ Hắc Hải)
Nói về quê hương tác giả tràn ngập một niềm vui sướng tự hào. Cụm từ "quê hương ta" đứng ngay đầu câu thơ gợi ra một niềm tự hào, kiêu hãnh về quê hương của tác giả. Một quê hương tươi đẹp và trù phú, ấm no và yên bình. Hình ảnh "lúa nếp thơm nồng" không chỉ gợi ra một khung cảnh quê hương giàu đẹp, ấm no, mùa màng tốt tươi mà còn gợi lên truyền thống của quê hương.
Đó chắc hẳn là một làng quê giàu truyền thống hội hè, đình đám, những lễ hội. Một Kinh Bắc cổ kính lâu đời. Không chỉ có vậy hình ảnh lúa nếp thơm nồng còn làm cho ta nhớ tới những sự tích "bánh chưng, bánh dày", ta liên tưởng đến những con người hiếu nghĩa, hiếu thảo. Có thể cái "nồng" ấy còn là cái nồng của cảm xúc của tình cảm tác giả.
Quê hương Kinh Bắc đâu chỉ có ấm no, trù phú ở đó còn có truyền thống văn hóa lâu đời. Đó chính là tranh Đông Hồ một nét văn hóa dân gian nổi tiếng của quê hương Kinh Bắc.
"Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong"
Quê hương Hoàng Cầm là ở thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ - một làng nghề làm tranh dân gian lâu đời. Người Kinh Bắc thuở xưa thường làm tranh để gửi vào đó những ước mơ, khát vọng của mình về một cuộc sống ấm no. Câu thơ trên giới thiệu những bức tranh quê hương với nét vẽ "gà lợn". Đó là cuộc sống của người dân, những con vật gần gũi với cuộc sống của người dân. Tất cả đều được đưa vào tranh, trở thành nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ta còn nhớ đến những bức tranh như Hứng dừa, Đám cưới chuột, Đánh ghen... Nhưng có lẽ Hoàng Cầm nói về tranh Đông Hồ là để khen cái tài của người làm tranh. Những con người Kinh Bắc tài hoa, chất phác, bình dị và rất vui tính nữa. Họ đều là những con người dễ thương, dễ mến và hiếu khách. Bức tranh Đông Hồ hiện lên với nét vẽ "nét tươi trong" và được tác giả đánh giá là màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".
Người Đông Hồ vẽ tranh bằng những màu lấy từ tự nhiên như màu đỏ của cánh hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng của nghệ... tất cả đều là những màu nguyên, đều gợi lên nét tươi trong. Nhưng liệu có quá to tát khi tác giả nói là "màu dân tộc sáng bừng" không, chắc chắn là không bởi đó là "màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".
Giấy điệp" là một loại giấy mà có lẽ chỉ có người làm tranh Đông Hồ mời có bí quyết để tạo ra một loại giấy mỏng nhưng rất bền và chắc. Câu thơ tràn ngập niềm tự hào của tác giả khi nhớ về quê hương. Cái "sáng bừng" ấy là cái sáng bừng của cảm xúc, của lòng tự hào kiêu hãnh. Một quê hương giàu đẹp như thế làm sao không khỏi tự hào, kiêu hãnh cơ chứ và cũng làm sao không khỏi đau đớn, xót xa khi mất đi quê hương ấy cơ chứ.
Nhưng khác với Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm lại khám phá đất nước ở một khía cạnh khác. Đó chính là tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra. Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trường ca Mặt đường khát vọng của ông được viết trong những ngày tháng nóng bỏng của chiến trường Bình - Trị - Thiên, đó là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ về vai trò của nhân dân, về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm đã thấm nhuần đất nước là máu xương của mình, đã "gắn bó và san sẻ", đã "đi trả thù mà chẳng sợ dài lâu". Cho nên ta có thể thấy tư tưởng thấu suốt trong chương thứ năm của trường ca "Mặt đương khát vọng" là đất nước của nhân dân, do nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong đoạn trích:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu"
... Chẳng mang một dáng hình, một lối sống ông cha"
Đó là sự cảm nhận đất nước về phương diện địa lý. Tất cả những dáng núi, hình sông trên đất nước ta đều do nhân dân làm ra. Tác giả đã thể hiện tư tưởng này qua một động từ, đó là "góp". Mọi người đều góp phần xây dựng đất nước. Chủ thể của động từ ấy là những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng, người học trò nghèo và cả những người dân bình thường... Họ đều là những con người hiếu nghĩa, thủy chung, cũng giàu truyền thống hiếu học và cũng kiên cường, anh dũng lắm thay: những núi Vọng Phu đất Tổ Hùng Vương, núi Bút, non Nghiên, ông Đốc, bà Điểm...
Dường như bàn chân nhân dân đi đâu, bàn tay nhân dân xây đắp những gì nhân dân đều hà hơi, thổi linh hồn mình vào đấy. Thế nên đất nước chứa đựng linh hồn của nhân dân, chính là tâm hồn nhân dân đó. Tác giả còn khắc sâu tư tưởng đất nước của nhân dân khi diễn tả những thứ nhân dân làm ra: đều có núi Bút, núi Vọng Phu, có Non Nghiên, có dòng sông, ao đầm nơi nào cung có bàn tay nhân dân xây đắp. Và từ đó nhà thơ đi đến một khái quát.
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha"
Câu thơ đã khái quát, khẳng định một điều rằng tất cả khắp mọi nơi trên đất nước đều do nhân dân làm và thổi linh hồn mình vào đấy.
Vì vậy mà trong đất nước đã in bóng hình của nhân dân và trong nhân dân có bóng hình đất nước.
Đất nước và nhân dân hòa vào nhau tạo nên một đất nước vừa thực vừa linh thiêng. Một đất nước vừa địa linh và nhân kiệt. Đây là một tư tưởng rất mới mẻ, khẳng định vai trò của nhân dân với đất nước. Biết bao thế hệ người dân ta từ già, trẻ, trai, gái đều đã ngã xuống, máu của họ tạo thành sông suối, xương của họ tạo lên dáng núi và tâm hồn của họ thành hồn sông núi, hồn xứ sở. Họ là người làm ra đất nước.
Qua hai đoạn thơ trên ta thấy cả Hoàng Cầm và Nguyễn Khoa Điềm đều rất tinh tế, tài hoa và sâu sắc trong việc khám phá những điều kỳ diệu về đất nước. Thế nhưng, nhà thơ đều có những sự khám phá thú vị của mình, đều tìm ra những nét khác nhau về đất nước muôn màu và thăng hoa thành những cảm xúc, những vần thơ tuyệt đẹp.
Hoàng Cầm khám phá đất nước trong nỗi nhớ thương, tiếc xót. Khi mà đau đớn đến quá đột ngột lại cộng với tâm hồn tài hoa và nhạy cảm đã tạo nên những câu thơ về đất nước đầy cảm xúc.
Khác với Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm với tư tưởng đất nước của nhân dân đã phải trải qua một quá trình chiêm nghiệrn thực tế mới rút ra được. Nhưng cả hai nhà thơ đều chung nhau là tìm về những giá trị truyền thống của quê hương đất nước, những nét văn hóa của làng quê phong cảnh đất nước và cả hai thi sĩ đều có chung một cảm xúc đầy tự hào và yêu thương.
Đề tài về đất nước luôn luôn là một cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền văn học của một dân tộc mà tình yêu nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành công về đề tài này đã nhiều nhưng Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vẫn có một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách riêng. Hai mặt đất nước của nhân dân và đất nước giàu truyền thống, góp vào vườn thơ về đất nước như hai bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời, muôn thế hệ.
* Câu 3: Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: "Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người". (Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, trang 201). Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, anh/chị hãy chứng minh nhận định trên.
Bài làm: Nhà văn Nam Cao (1915 - 1951) là cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam trước cách mạng và cũng là nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học non trẻ những ngày đầu.
Trước cách mạng, do bên cạnh việc viết về bi kịch của người nông dân với tác phẩm bất hủ "Chí Phèo" người đọc còn nhớ mãi bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng trong tác phẩm "Đời thừa" mà được thể hiện rõ qua nhân vật Hộ. Nhà văn Nam Cao với tài năng xuất chúng và một tấm lòng yêu thương nhân ái bao la đã thể hiện rõ được tâm lý của người trí thức tiểu tư sản trong cảnh ngộ bi kịch ấy. Chính vì vậy nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết "Ông có sở trường về diễn tả, phân tích tâm lý con người".
Truyện ngắn "Đời thừa" ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong "Trang tiểu thuyết số 7" số ra ngày 4-3-1943. Tác phẩm cùng đề tài này có "Mực mài nước mắt" của Lan Khai, "Nợ văn" của Lãng Tử, "Đời thừa" còn gần gũi về đề tài với một số tác phẩm của Nam Cao như "Trăng sáng", "Nước mắt" và tiểu thuyết "Sống mòn". Qua tác phẩm Nam Cao đã miêu tả thành công tâm trạng của một người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng.
Hộ vốn là một nhà văn, một nhà văn mang trong mình hoài bão lớn ấy là viết được một tác phẩm "vượt qua mọi giới hạn và bờ cõi" ai đó vội cho đó là sự háo danh. Nhưng không phải vậy. Đó là ước mơ của một con người có lý tưởng, có hoài bão lớn, muốn khẳng định được tài năng của mình. Hộ còn là một nhà văn chân chính.
Điều này được thể hiện qua một loạt quan niệm của anh về văn chương "văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" với ý nghĩ ấy Hộ đã vô cùng căm ghét sự cẩu thả trong văn chương "cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện". Như vậy qua những quan niệm của Hộ về văn chương ta thấy đây là một nhà văn có hoài bão, một nhà văn chân chính, có lương tri của một người cầm bút chân chính ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Thế nhưng trước khi là một nhà văn Hộ còn là một người chồng, một người cha, hắn còn có một gánh nặng gia đình trên vai. Cuộc sống với một gia đình đông con, một người vợ thất nghiệp đã cướp đi ở hắn sự thanh thản sự thanh thản cần thiết để một tâm hồn văn chương thăng hoa, khi mà cứ hết tháng lại "tiền nhà, tiền gạo, tiền nước mắm".
Hoài bão văn chương có thể nung nấu trong chốc lát nhưng chuyện cơm áo là chuyện phải đối mặt hàng ngày. Chả thế mà Xuân Diệu đã từng thốt lên:
"Nỗi đời cay đắng giơ nanh vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ"
Thế là Hộ điên lên, phải xoay tiền. Nam Cao đã thật tỉ mỉ khi miêu tả tâm trạng của Hộ trong cảnh túng quẫn ấy "đang ngồi hắn đứng phắt dậy mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn". Chỉ một đoạn văn ngắn mà ông đã tái hiện lại tâm trạng của Hộ: thật bức bách. Nanh vuốt của họa cơm áo đang có nguy cơ nuốt chửng nhà văn Hộ đầy tâm huyết ngày nào.
Và thế là để có tiền thì Hộ phải viết. Nam Cao là một nhà văn hiện thực nên ông biết rằng Hộ muốn có tiền thì phải viết, viết những tác phẩm đáp ứng được nhu cầu của một đám thị dân lúc bấy giờ "những tác phẩm làm người ta quên ngay sau lúc đọc". Hộ phải viết những tác phẩm ấy, nhưng giả dụ có ai bảo hắn viết những tác phẩm cao quý hắn cũng chẳng biết đường nào mà viết bởi tâm trạng bức bách ở trên. Thế rồi Hộ bị văng vào quỹ đạo của bi kịch.
Hắn thấy xấu hổ khi đọc những tác phẩm ấy "hắn đỏ mặt lên". Đó là sự xấu hổ của một chút lương tri ít nhiều chưa vỡ nát trong Hộ. Hộ đau đớn, tủi cực không phải vì không được viết, mà là anh đã tự giẫm lên những nguyên tắc do mình đặt ra, còn gì đau đớn hơn khi mình lại phản bội chính mình. Nam Cao tỏ ra rất tinh tế và cảm thông trước tâm trạng của Hộ. Phải hiểu, phải cảm thông thế nào thì ông mới có thể viết lên những trang văn đầy giằng xé như vậy.
Thế là từ không thực hiện được giấc mộng văn chương và Hộ đã trở thành kẻ phản bội chính mình. Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó, ông muốn người đọc đi đến tận cùng sự khổ cực, bi kịch của người trí thức. Hộ lại bị đẩy ra khơi - trước từng cơn sóng dữ của cuộc đời. Nó đã quăng anh vào bi kịch nghề nghiệp nó lại quật anh vào một bi kịch khác, bi kịch không thực hiện được tình người cho trọn.
Mọi chuyện bắt đầu từ lúc hắn lấy Từ. Lấy Từ hắn đã thực hiện được nguyên tắc tình thương của mình đã cứu được ba con người. Nhưng rồi, từ đó bi kịch đã mở ra với hắn. Gánh nặng gia đình đã đè nặng lên vai khiến hắn thấy mình khổ, đáng trách hơn là hắn coi Từ là nguyên nhân khiến mình khổ. Từ đó hắn đã tìm đến rượu, có lúc hắn toan ruồng bỏ vợ con.
Khi say hắn đã có những hành động vũ phu quá đáng "hắn chỉ tay vào mặt Từ" đuổi mấy mẹ con Từ ra ngoài. Nam Cao đã có một lời biện hộ yếu ớt ấy là cho hắn hành động trong lúc say. Nhưng tất cả đều đổ nhào trước nguyên tắc: nguyên tắc tình thương. Hộ thật đáng trách khi coi vợ con là nguyên nhân làm mình khổ. Thế là mọi nguyên tắc tình thương mà hắn đặt ra trước đây "kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai mình" đã bị hắn đạp đổ.
Giờ đây đâu còn là một nhà văn Hộ giàu tâm huyết, giàu lòng nhân đạo nữa mà là một con người vũ phu quá đáng. Hộ thật đáng trách nhưng có lẽ đáng thương hơn là đáng trách. Thế nhưng Nam Cao đã để cho nhân vật của mình dừng lại trên con đường bị tha hóa ấy. Sau mỗi lần say, Hộ lại tỉnh và nhận rõ được sai lầm của mình xin lỗi và làm lành với vợ con.
Phải là một người đầy tài năng, già tay nghệ thuật và vững tin vào con người thì Nam Cao mới có thể đặt nhân vật vào lốc xoáy cuộc đời nhưng cuối cùng tình người vẫn chiến thắng. Hộ đã khóc "Anh chỉ là một thằng khốn nạn". Giọt nước mắt ăn năn, hối lỗi. Câu chuyện về cuộc đời Hộ đã khép lại bằng câu hát ru đẫm nước mắt của Từ:
"Ai làm cho khói lên giời
Cho mưa xuống đất cho người biệt li"
Như vậy, qua tấn bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng. Đồng thời lên án xã hội bất công không cho con người phát triển toàn diện về tài năng và nhân cách. Qua đây ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật về diễn tả và phân tích tâm lý bậc thầy của nhà văn Nam Cao. Nhưng dù cuộc đời có cay nghiệt, lốc xoáy có dữ dội thì nhân vật của ông vẫn hướng về chân trời của cái chân, thiện, mĩ.
Theo Tiền Phong
Ngoài điểm 10 môn Văn của thí sinh Nguyễn Thị Thu Trang, còn một thí sinh khác được điểm 10 Văn nữa - đó là Nguyễn Thị Tâm, quê Thủy Nguyên, Hải Phòng. Khác với Thu Trang thi khối D, Tâm thi khối C vào Học viện Cảnh sát nhân dân. Chúng tôi trích đăng một phần bài thi của Nguyễn Thị Tâm để bạn đọc tham khảo.
* Câu 2 (5 điểm): Phân tích hai trích đoạn thơ:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm, Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.79)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha
(Đất nước, trích chương V trường ca Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm - Văn học 12, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.249-250)
Bài làm: Chưa bao giờ trong dòng chảy của Văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc đáo và xúc động viết về quê hương mình đã gắn bó trọn đời trọn kiếp, vậy mà chỉ viết trong một đêm. Thế nên tất cả những hình ảnh, những cảm xúc trong bài thơ đều là những hồi ức nóng bỏng, vừa là cháy đỏ yêu thương thắm nồng tình cảm vừa là ngùn ngụt chí căm thù quân xâm lược.
Đoạn trích:
"Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"
Đây là đoạn thơ mở đầu phần hai của bài thơ. Sau khi bộc lộ nỗi niềm nhớ tiếc về một dòng sông Đuống êm đềm, thanh bình nay đã trở thành quá khứ, thành nỗi xót xa đến "rụng bàn tay" nhà thơ tiếp tục hồi tưởng về quê hương với những giá trị truyền thống.
Mở đầu đoạn trích Bên kia sông Đuống vang lên như một lời giới thiệu. Nơi ấy là nơi nào? Đây chính là thôn Lạc Thổ - xã Song Hồ - huyện Thuận Thành - tỉnh Bắc Ninh, nơi bờ nam sông Đuống của nhà thơ đang bị giặc chiếm đóng. Nơi ấy là nơi lưu giữ những hồi ức, những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm của tác giả giờ đây đã trở thành máu thịt của tâm hồn, trở thành một mảng ký ức của nỗi đau. Câu thơ ngắn gọn, chỉ có bốn từ vang lên như một tiếng gọi, gọi lòng thi sĩ trở về với quê hương đồng thời cũng như một tiếng lòng của thi sĩ, trở thành một nỗi đau day dứt ám ảnh. Thế nên điệp khúc Bên kia sông Đuống cứ lặp đi lặp lại trong suốt bài thơ.
Sau lời giới thiệu ấy một quê hương Kinh Bắc đã hiện ra với một truyền thống văn vật:
"Quê hương ta lúa nếp thơm nồng"
Bức tranh quê hương hiện lên với phong cảnh đồng ruộng, bát ngát, hương thơm bay thoang thoảng của lúa nếp. Đọc đến đây ta thấy quê hương của Hoàng Cầm có gì đó thật gần gũi với mọi làng quê Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng thốt lên:
"Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn"
(Bài thơ Hắc Hải)
Nói về quê hương tác giả tràn ngập một niềm vui sướng tự hào. Cụm từ "quê hương ta" đứng ngay đầu câu thơ gợi ra một niềm tự hào, kiêu hãnh về quê hương của tác giả. Một quê hương tươi đẹp và trù phú, ấm no và yên bình. Hình ảnh "lúa nếp thơm nồng" không chỉ gợi ra một khung cảnh quê hương giàu đẹp, ấm no, mùa màng tốt tươi mà còn gợi lên truyền thống của quê hương.
Đó chắc hẳn là một làng quê giàu truyền thống hội hè, đình đám, những lễ hội. Một Kinh Bắc cổ kính lâu đời. Không chỉ có vậy hình ảnh lúa nếp thơm nồng còn làm cho ta nhớ tới những sự tích "bánh chưng, bánh dày", ta liên tưởng đến những con người hiếu nghĩa, hiếu thảo. Có thể cái "nồng" ấy còn là cái nồng của cảm xúc của tình cảm tác giả.
Quê hương Kinh Bắc đâu chỉ có ấm no, trù phú ở đó còn có truyền thống văn hóa lâu đời. Đó chính là tranh Đông Hồ một nét văn hóa dân gian nổi tiếng của quê hương Kinh Bắc.
"Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong"
Quê hương Hoàng Cầm là ở thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ - một làng nghề làm tranh dân gian lâu đời. Người Kinh Bắc thuở xưa thường làm tranh để gửi vào đó những ước mơ, khát vọng của mình về một cuộc sống ấm no. Câu thơ trên giới thiệu những bức tranh quê hương với nét vẽ "gà lợn". Đó là cuộc sống của người dân, những con vật gần gũi với cuộc sống của người dân. Tất cả đều được đưa vào tranh, trở thành nét văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ta còn nhớ đến những bức tranh như Hứng dừa, Đám cưới chuột, Đánh ghen... Nhưng có lẽ Hoàng Cầm nói về tranh Đông Hồ là để khen cái tài của người làm tranh. Những con người Kinh Bắc tài hoa, chất phác, bình dị và rất vui tính nữa. Họ đều là những con người dễ thương, dễ mến và hiếu khách. Bức tranh Đông Hồ hiện lên với nét vẽ "nét tươi trong" và được tác giả đánh giá là màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".
Người Đông Hồ vẽ tranh bằng những màu lấy từ tự nhiên như màu đỏ của cánh hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng của nghệ... tất cả đều là những màu nguyên, đều gợi lên nét tươi trong. Nhưng liệu có quá to tát khi tác giả nói là "màu dân tộc sáng bừng" không, chắc chắn là không bởi đó là "màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".
Giấy điệp" là một loại giấy mà có lẽ chỉ có người làm tranh Đông Hồ mời có bí quyết để tạo ra một loại giấy mỏng nhưng rất bền và chắc. Câu thơ tràn ngập niềm tự hào của tác giả khi nhớ về quê hương. Cái "sáng bừng" ấy là cái sáng bừng của cảm xúc, của lòng tự hào kiêu hãnh. Một quê hương giàu đẹp như thế làm sao không khỏi tự hào, kiêu hãnh cơ chứ và cũng làm sao không khỏi đau đớn, xót xa khi mất đi quê hương ấy cơ chứ.
Nhưng khác với Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm lại khám phá đất nước ở một khía cạnh khác. Đó chính là tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra. Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Trường ca Mặt đường khát vọng của ông được viết trong những ngày tháng nóng bỏng của chiến trường Bình - Trị - Thiên, đó là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ về vai trò của nhân dân, về trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay đối với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm đã thấm nhuần đất nước là máu xương của mình, đã "gắn bó và san sẻ", đã "đi trả thù mà chẳng sợ dài lâu". Cho nên ta có thể thấy tư tưởng thấu suốt trong chương thứ năm của trường ca "Mặt đương khát vọng" là đất nước của nhân dân, do nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong đoạn trích:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu"
... Chẳng mang một dáng hình, một lối sống ông cha"
Đó là sự cảm nhận đất nước về phương diện địa lý. Tất cả những dáng núi, hình sông trên đất nước ta đều do nhân dân làm ra. Tác giả đã thể hiện tư tưởng này qua một động từ, đó là "góp". Mọi người đều góp phần xây dựng đất nước. Chủ thể của động từ ấy là những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng, người học trò nghèo và cả những người dân bình thường... Họ đều là những con người hiếu nghĩa, thủy chung, cũng giàu truyền thống hiếu học và cũng kiên cường, anh dũng lắm thay: những núi Vọng Phu đất Tổ Hùng Vương, núi Bút, non Nghiên, ông Đốc, bà Điểm...
Dường như bàn chân nhân dân đi đâu, bàn tay nhân dân xây đắp những gì nhân dân đều hà hơi, thổi linh hồn mình vào đấy. Thế nên đất nước chứa đựng linh hồn của nhân dân, chính là tâm hồn nhân dân đó. Tác giả còn khắc sâu tư tưởng đất nước của nhân dân khi diễn tả những thứ nhân dân làm ra: đều có núi Bút, núi Vọng Phu, có Non Nghiên, có dòng sông, ao đầm nơi nào cung có bàn tay nhân dân xây đắp. Và từ đó nhà thơ đi đến một khái quát.
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha"
Câu thơ đã khái quát, khẳng định một điều rằng tất cả khắp mọi nơi trên đất nước đều do nhân dân làm và thổi linh hồn mình vào đấy.
Vì vậy mà trong đất nước đã in bóng hình của nhân dân và trong nhân dân có bóng hình đất nước.
Đất nước và nhân dân hòa vào nhau tạo nên một đất nước vừa thực vừa linh thiêng. Một đất nước vừa địa linh và nhân kiệt. Đây là một tư tưởng rất mới mẻ, khẳng định vai trò của nhân dân với đất nước. Biết bao thế hệ người dân ta từ già, trẻ, trai, gái đều đã ngã xuống, máu của họ tạo thành sông suối, xương của họ tạo lên dáng núi và tâm hồn của họ thành hồn sông núi, hồn xứ sở. Họ là người làm ra đất nước.
Qua hai đoạn thơ trên ta thấy cả Hoàng Cầm và Nguyễn Khoa Điềm đều rất tinh tế, tài hoa và sâu sắc trong việc khám phá những điều kỳ diệu về đất nước. Thế nhưng, nhà thơ đều có những sự khám phá thú vị của mình, đều tìm ra những nét khác nhau về đất nước muôn màu và thăng hoa thành những cảm xúc, những vần thơ tuyệt đẹp.
Hoàng Cầm khám phá đất nước trong nỗi nhớ thương, tiếc xót. Khi mà đau đớn đến quá đột ngột lại cộng với tâm hồn tài hoa và nhạy cảm đã tạo nên những câu thơ về đất nước đầy cảm xúc.
Khác với Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm với tư tưởng đất nước của nhân dân đã phải trải qua một quá trình chiêm nghiệrn thực tế mới rút ra được. Nhưng cả hai nhà thơ đều chung nhau là tìm về những giá trị truyền thống của quê hương đất nước, những nét văn hóa của làng quê phong cảnh đất nước và cả hai thi sĩ đều có chung một cảm xúc đầy tự hào và yêu thương.
Đề tài về đất nước luôn luôn là một cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền văn học của một dân tộc mà tình yêu nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành công về đề tài này đã nhiều nhưng Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vẫn có một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách riêng. Hai mặt đất nước của nhân dân và đất nước giàu truyền thống, góp vào vườn thơ về đất nước như hai bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời, muôn thế hệ.
* Câu 3: Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: "Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người". (Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, trang 201). Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, anh/chị hãy chứng minh nhận định trên.
Bài làm: Nhà văn Nam Cao (1915 - 1951) là cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam trước cách mạng và cũng là nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học non trẻ những ngày đầu.
Trước cách mạng, do bên cạnh việc viết về bi kịch của người nông dân với tác phẩm bất hủ "Chí Phèo" người đọc còn nhớ mãi bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng trong tác phẩm "Đời thừa" mà được thể hiện rõ qua nhân vật Hộ. Nhà văn Nam Cao với tài năng xuất chúng và một tấm lòng yêu thương nhân ái bao la đã thể hiện rõ được tâm lý của người trí thức tiểu tư sản trong cảnh ngộ bi kịch ấy. Chính vì vậy nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết "Ông có sở trường về diễn tả, phân tích tâm lý con người".
Truyện ngắn "Đời thừa" ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong "Trang tiểu thuyết số 7" số ra ngày 4-3-1943. Tác phẩm cùng đề tài này có "Mực mài nước mắt" của Lan Khai, "Nợ văn" của Lãng Tử, "Đời thừa" còn gần gũi về đề tài với một số tác phẩm của Nam Cao như "Trăng sáng", "Nước mắt" và tiểu thuyết "Sống mòn". Qua tác phẩm Nam Cao đã miêu tả thành công tâm trạng của một người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng.
Hộ vốn là một nhà văn, một nhà văn mang trong mình hoài bão lớn ấy là viết được một tác phẩm "vượt qua mọi giới hạn và bờ cõi" ai đó vội cho đó là sự háo danh. Nhưng không phải vậy. Đó là ước mơ của một con người có lý tưởng, có hoài bão lớn, muốn khẳng định được tài năng của mình. Hộ còn là một nhà văn chân chính.
Điều này được thể hiện qua một loạt quan niệm của anh về văn chương "văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" với ý nghĩ ấy Hộ đã vô cùng căm ghét sự cẩu thả trong văn chương "cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện". Như vậy qua những quan niệm của Hộ về văn chương ta thấy đây là một nhà văn có hoài bão, một nhà văn chân chính, có lương tri của một người cầm bút chân chính ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ.
Thế nhưng trước khi là một nhà văn Hộ còn là một người chồng, một người cha, hắn còn có một gánh nặng gia đình trên vai. Cuộc sống với một gia đình đông con, một người vợ thất nghiệp đã cướp đi ở hắn sự thanh thản sự thanh thản cần thiết để một tâm hồn văn chương thăng hoa, khi mà cứ hết tháng lại "tiền nhà, tiền gạo, tiền nước mắm".
Hoài bão văn chương có thể nung nấu trong chốc lát nhưng chuyện cơm áo là chuyện phải đối mặt hàng ngày. Chả thế mà Xuân Diệu đã từng thốt lên:
"Nỗi đời cay đắng giơ nanh vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ"
Thế là Hộ điên lên, phải xoay tiền. Nam Cao đã thật tỉ mỉ khi miêu tả tâm trạng của Hộ trong cảnh túng quẫn ấy "đang ngồi hắn đứng phắt dậy mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn". Chỉ một đoạn văn ngắn mà ông đã tái hiện lại tâm trạng của Hộ: thật bức bách. Nanh vuốt của họa cơm áo đang có nguy cơ nuốt chửng nhà văn Hộ đầy tâm huyết ngày nào.
Và thế là để có tiền thì Hộ phải viết. Nam Cao là một nhà văn hiện thực nên ông biết rằng Hộ muốn có tiền thì phải viết, viết những tác phẩm đáp ứng được nhu cầu của một đám thị dân lúc bấy giờ "những tác phẩm làm người ta quên ngay sau lúc đọc". Hộ phải viết những tác phẩm ấy, nhưng giả dụ có ai bảo hắn viết những tác phẩm cao quý hắn cũng chẳng biết đường nào mà viết bởi tâm trạng bức bách ở trên. Thế rồi Hộ bị văng vào quỹ đạo của bi kịch.
Hắn thấy xấu hổ khi đọc những tác phẩm ấy "hắn đỏ mặt lên". Đó là sự xấu hổ của một chút lương tri ít nhiều chưa vỡ nát trong Hộ. Hộ đau đớn, tủi cực không phải vì không được viết, mà là anh đã tự giẫm lên những nguyên tắc do mình đặt ra, còn gì đau đớn hơn khi mình lại phản bội chính mình. Nam Cao tỏ ra rất tinh tế và cảm thông trước tâm trạng của Hộ. Phải hiểu, phải cảm thông thế nào thì ông mới có thể viết lên những trang văn đầy giằng xé như vậy.
Thế là từ không thực hiện được giấc mộng văn chương và Hộ đã trở thành kẻ phản bội chính mình. Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó, ông muốn người đọc đi đến tận cùng sự khổ cực, bi kịch của người trí thức. Hộ lại bị đẩy ra khơi - trước từng cơn sóng dữ của cuộc đời. Nó đã quăng anh vào bi kịch nghề nghiệp nó lại quật anh vào một bi kịch khác, bi kịch không thực hiện được tình người cho trọn.
Mọi chuyện bắt đầu từ lúc hắn lấy Từ. Lấy Từ hắn đã thực hiện được nguyên tắc tình thương của mình đã cứu được ba con người. Nhưng rồi, từ đó bi kịch đã mở ra với hắn. Gánh nặng gia đình đã đè nặng lên vai khiến hắn thấy mình khổ, đáng trách hơn là hắn coi Từ là nguyên nhân khiến mình khổ. Từ đó hắn đã tìm đến rượu, có lúc hắn toan ruồng bỏ vợ con.
Khi say hắn đã có những hành động vũ phu quá đáng "hắn chỉ tay vào mặt Từ" đuổi mấy mẹ con Từ ra ngoài. Nam Cao đã có một lời biện hộ yếu ớt ấy là cho hắn hành động trong lúc say. Nhưng tất cả đều đổ nhào trước nguyên tắc: nguyên tắc tình thương. Hộ thật đáng trách khi coi vợ con là nguyên nhân làm mình khổ. Thế là mọi nguyên tắc tình thương mà hắn đặt ra trước đây "kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai mình" đã bị hắn đạp đổ.
Giờ đây đâu còn là một nhà văn Hộ giàu tâm huyết, giàu lòng nhân đạo nữa mà là một con người vũ phu quá đáng. Hộ thật đáng trách nhưng có lẽ đáng thương hơn là đáng trách. Thế nhưng Nam Cao đã để cho nhân vật của mình dừng lại trên con đường bị tha hóa ấy. Sau mỗi lần say, Hộ lại tỉnh và nhận rõ được sai lầm của mình xin lỗi và làm lành với vợ con.
Phải là một người đầy tài năng, già tay nghệ thuật và vững tin vào con người thì Nam Cao mới có thể đặt nhân vật vào lốc xoáy cuộc đời nhưng cuối cùng tình người vẫn chiến thắng. Hộ đã khóc "Anh chỉ là một thằng khốn nạn". Giọt nước mắt ăn năn, hối lỗi. Câu chuyện về cuộc đời Hộ đã khép lại bằng câu hát ru đẫm nước mắt của Từ:
"Ai làm cho khói lên giời
Cho mưa xuống đất cho người biệt li"
Như vậy, qua tấn bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng. Đồng thời lên án xã hội bất công không cho con người phát triển toàn diện về tài năng và nhân cách. Qua đây ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật về diễn tả và phân tích tâm lý bậc thầy của nhà văn Nam Cao. Nhưng dù cuộc đời có cay nghiệt, lốc xoáy có dữ dội thì nhân vật của ông vẫn hướng về chân trời của cái chân, thiện, mĩ.
Theo Tiền Phong
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: