Bài 3: Viết câu

  • Thread starter Thread starter vosong
  • Ngày gửi Ngày gửi

vosong

New member
Xu
0
Ta dùng từ để đặt thành câu trong khi tư duy và thông báo. Câu có ý nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp và có tính chất độc lập.

I. PHÂN LOẠI CÂU

Theo cấu trúc, ta chia câu thành hai loại là câu đơn và câu ghép.

1. Câu đơn

Câu đơn có một cụm chủ vị làm nòng cốt.

a) Câu đơn chỉ có hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ

Chủ ngữ là người, vật hoặc sự việc mà ta muốn nói đến, đó là đối tượng thông báo. Vị ngữ “nói” đối tượng thông báo ấy, cho biết người, vật hoặc sự việc nói đến làm gì, như thế nào.

MH: C – V.​

Ví dụ: Hoa nở.

Ta có thể mở rộng chủ ngữ và vị ngữ bằng cách thêm định ngữ (định tố) là phần bổ nghĩa cho danh từ, hoặc thêm bổ ngữ (bổ tố) là phần bổ nghĩa cho động từ.

Ví dụ: Hoa đầu mùa đã bắt đầu nở.

b) Câu đơn có thêm phần phụ là trạng ngữ

Trạng ngữ bổ túc nghĩa cho một cụm chủ vị.

MH: T, C – V.​

Ví dụ: Sáng hôm nay, hoa đầu mùa đã bắt đầu nở.

Có nhiều loại trạng ngữ như trạng ngữ chỉ thời gian, trạng ngữ chỉ nơi chốn, trạng ngữ chỉ nguyên nhân, trạng ngữ chỉ mục đích, trạng ngữ chỉ tình huống hoặc tình thái, v.v…

Ví dụ: Nhìn ánh đèn ở phía chân trời, các chiến sĩ nôn nao nhớ về thành phố.

Ở ví dụ trên, ngữ động từ” Nhìn ánh đèn ở phía chân trời” là trạng ngữ chỉ tình thái. Trạng ngữ chỉ tình thái còn được gọi là vị ngữ phụ.

c) Câu đơn có thêm phần phụ là thành phần biệt lập

Thành phần biệt lập (thành phần chú thích) được đặt giữa một cụm chủ vị.

MH: C, BL, V.​

Ví dụ: Hoa mai, những bông hoa đầu mùa đã nở,

Ở ví dụ trên, ngữ danh từ “những bông hoa đầu mùa” bổ túc nghĩa cho chủ ngữ “Hoa mai”. Phần biệt lập này còn được gọi là phần lặp.

Ví dụ: Những bông hoa này, theo tôi nghĩ, là những bông hoa đầu mùa.

Ở ví dụ trên, tổ hợp từ “theo tôi nghĩ” bổ túc nghĩa cho cả một cụm chủ vị. Phần biệt lập này còn được gọi là phần xen.

d) Câu đơn có chủ ngữ, vị ngữ là một cụm chủ vị

Trong trường hợp này, một cụm chủ vị làm chủ ngữ, hoặc một cụm chủ vị làm vị ngữ.

MH1: C(c – v) – V.​

Ví dụ: Anh làm như vậy không có lợi cho tập thể.

MH2: C – V(c – v)​

2. Câu ghép

Câu ghép có từ hai cụm chủ vị trở lên, trong đó không có cụm chủ vị nào bao gồm cụm chủ vị nào.

a) Câu ghép gồm hai cụm chủ vị có quan hệ chính phụ

Mối quan hệ trong câu ghép chính phụ có thể là quan hệ nguyên nhân, quan hệ mục đích, quan hệ điều kiện, quan hệ nhượng bộ, quan hệ tăng tiến. Ta thường dùng từ nối hoặc cặp từ nối để biểu hiện các mối quan hệ trong câu ghép chính phụ.

MH1: (TN) C – V (TN) C – V.​

Ví dụ: Sở dĩ anh thành công là vì anh làm việc có phương pháp.

MH2: C – V (TN) C – V.​

Ví dụ: Anh thành công, vì anh làm việc có phương pháp.

Ta cũng có thể dùng phó từ (phụ từ) để biểu hiện các mối quan hệ trong câu ghép chính phụ.

MH3: C (PT) V, C (PT) V.​

Ví dụ: Trời càng mưa, nước càng dâng cao.

b) Câu ghép gồm hai cụm chủ vị có quan hệ đẳng lập

Mối quan hệ trong câu ghép đẳng lập có thể là quan hệ liệt kê, quan hệ lựa chọn, quan hệ tương phản, quan hệ tương đồng.

MH1: C- V, C – V, C – V.​

Ví dụ: Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. (Hồ Chí Minh)

Ta cũng có thể dùng từ nối hoặc phó từ để thể hiện các mối quan hệ trong câu ghép đẳng lập.

MH2: C – V, (TN) C – V.​

Ví dụ: Ong hút mật của hoa, nhưng ong không làm hại sắc và hương của hoa.

MH3: C – V, C (PT) V.​

Ví dụ: Anh đi, tôi cũng đi.

c) Câu ghép gồm các cụm chủ vị vừa có quan hệ chính phụ vừa có quan hệ đẳng lập.

Đây là câu ghép hỗn hợp, do hai loại câu ghép vừa nêu trên họp lại mà tạo nên.

Ví dụ: Mẹ về, cả nhà vui, vì ai cũng mong.

Trích Tiếng Việt thực hành của tác giả Hà Thúc Hoan
 
II. Dùng dấu câu

Ở đây, trước hết ta tìm hiểu chức năng chung của hai nhóm dấu câu, sau đó tìm hiểu chức năng riêng của mỗi dấu câu.

1. Chức năng chung của hai nhóm dấu câu

Việt ngữ có 10 dấu câu, chia thành hai nhóm là nhóm dấu dùng để phân cách (phẩy, chấm phẩy, chấm, hai chấm, chấm hỏi, chấm than, chấm lửng) và nhóm dấu dùng để tách biệt (phẩy, ngang, ngoặc đơn, ngoặc kép).

a) Ta dùng các dấu câu thuộc nhóm dấu phân cách một lần để phân cách các đơn vị ngữ pháp có quan hệ đẳng lập

Đ, Đ: Ba độc tham, sân, si làm ô nhiễm tâm hồn con người.

B, B: Ngũ thường là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.

T, T: Sáng nay, trong vườn nhà tôi, hoa tường vi đã nở.

C, C: Nguyễn Trải, Nguyễn Du là hai nhà thơ lớn.

V, V: Cô giáo đọc sách, viết văn.

C-V. C-V: Chúng ta biết cách đánh. Chúng ta biết cách thắng.

C-V? C-V: Ai chết vinh buồn chăng? Ai sống nhục thẹn chăng?

b) Ta dùng các dấu câu thuộc nhóm dấu tách biệt hai lần để tách biệt trạng ngữ, phần biệt lập hoặc phần chú thích khỏi một cụm chủ vị

C, T, V: Nguyễn Trãi, qua Bình ngô đại cáo, đã làm sáng tỏ lý tưởng chiến đấu vì nhân nghĩa và hòa bình của dân tộc Việt.

C-BL-V: Mới hai mươi sáu tuổi mà chồng của chị Dậu – anh Nguyễn Văn Dậu – đã học nghề làm ruộng đến mười bảy năm.

C(CT) V: Rèn luyện đạo đứa trước, tiếp thu kiến thức sau (Tiên học lễ, hậu học văn) là một truyền thống cần kế thừa và phát huy của giáo dục Việt Nam.

2. Chức năng riêng của mỗi dấu câu

a) Ngoài chức năng phân cách hai đơn vị ngữ pháp có quan hệ đẳng lập,dấu phẩy còn được dùng để phân cách hai đơn vị ngữ pháp có quan hệ chính phụ.

T, C-V: Trong cuộc kháng chiến này, Việt Minh đoán trước rằng sẽ thắng lợi và nhất định sẽ thắng lợi. (Hồ Chí Minh)

C-V, C-V: Đối với người chưa thành niên phạm tội ít quan trọng, tòa án có thể quyết định buộc phải chịu thử thách từ một đến hai năm.

Thông thường, giữa chủ ngữ và vị ngữ không có dấu phẩy. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, để tránh hiểu lầm, người ta cũng có thể đặt dấu phẩy giữa chủ ngữ và vị ngữ.

Ví dụ: Cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc ngọt, cái xinh xắn của cặp môi đỏ tươi, cái mịn màng của nước da đen giòn và cái nuột nà của người đàn bà 24 tuổi, vẫn không đánh đổ những cái lo phiền buồn bã trong trái tim. (Ngô Tất Tố)

b) Ta chỉ nên dùng dâu chấm phẩy trong trường hợp dấu phẩy đã mất tác dụng

MH: A, B, C.
A1, A2; B1, B2; C1, C2.

Ví dụ: Đối với người chưa thành niên phạm tội, tòa án áp dụng chủ yếu biện pháp giáo dục, gia đình có trách nhiệm tham gia tích cực vào việc thực hiện biện pháp ấy.

Đối với người chưa thành niên phạm tội, viện kiểm sát và tòa án áp dụng chủ yếu những biện pháp giáo dục, phòng ngừa; gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm tham gia tích cực vào việc thực hiện biện pháp ấy.

c) Dấu hai chấm dùng để báo hiệu điều sẽ trình bày tiếp theo sau và có chức năng thuyết minh điều đã trình bày ở trước

Ví dụ: Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya… (Xuân Diệu)

Chiến công kỳ diệu mùa xuân 1975 đã diễn ra trong thời gian rất ngắn: 55 ngày đêm. (Võ Nguyên Giáp)

d) Ta chỉ nên đặt dấu hỏi ở cuối câu hỏi trực tiếp

Ví dụ: Học sinh làm xong bài tập chưa?

e) Dấu chấm lửng được dùng với ngụ ý rằng còn nhiều ý tình chưa được nói hết

Ví dụ: Các nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo trong nhà bác phó My, đèn hoa kỳ leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách … (Thạch Lam)

Dấu chấm lửng không thích hợp với các văn bản hành chánh, pháp lý. Nói chung, khi làm văn nghị luận, sinh viên không nên lạm dụng dấu ba chấm này.

f) Khi thành phần chú thích có quan hệ chặt chẽ với một từ, ngữ đứng trước nó, ta dùng dấu ngang để nhấn mạnh thành phần này.Dấu ngoặc đơn được dùng trong trường hợp trái lại

Ví dụ: Người ta gọi gió ấy là gió giải nồng – gió quạt mát cho người cày ở dưới ruộng. (Tô Hoài)

Nhà đã đông: hai cán bộ giảng dạy Trường đại học bách khoa (đồng nghiệp), một kỹ sư vô tuyến điện ( bạn thanh khí từ thưở học phổ thông)… cùng người bạn gái (không rõ nghề gì) thơm phức và cực kỳ xinh đẹp. (Nguyễn Thị Hoài)
 
III. CHỮA CÂU SAI

Loại câu sai thường gặp là những câu sai về cấu trúc. Những câu sai ít phổ biến hơn là câu sai về logic,về quy chiếu, về phong cách.

1/ Câu sai về cấu trúc

a) Câu thiếu chủ ngữ

MH: TV

Ví dụ: Qua ba tháng rèn luyện đã nâng cao trình độ của học viên.

Ở ví dụ trên, “Qua” kết hợp với “ba tháng rèn luyện” để tạo thành trạng ngữ chỉ thời gian. Vì vậy, câu thiếu chủ ngữ. Ta có thể chữa loại câu sai này bằng hai cách dưới đây.

Bỏ “Qua”: Ba tháng rèn luyện đã nâng cao trình độ của học viên.

Thêm chủ ngữ: Qua ba tháng rèn luyện, giảng viên đã nâng cao trình độ của học viên.

b) Câu thiếu vị ngữ

MH1: CT.

Ví dụ: Quân đội ta từ khi còn là những toán quân du kích chiến đấu trên địa thế hiểm trở của núi rừng.

Ở ví dụ trên, người viết phát triển trạng ngữ quá dài và lầm tưởng một phần hoặc tất cả trạng ngữ ấy là vị ngữ. Ta có thể chữa lỗi trên bằng hai cách dưới đây.

Bỏ “từ khi còn”: Quân đội ta từ khi còn là những toán quân du kích chiến đấu trên địa thế hiểm trở của núi rừng.

Thêm vị ngữ: Quân đội ta, từ khi còn là những toán quân du kích chiến đấu trên địa thế hiểm trở của núi rừng, đã lập được nhiều chiến công vẻ vang.

MH2: C (Đ)

Ví dụ: Những học sinh đi khám sức khỏe.

Trong tiếng Việt, từ “những” được dùng để chỉ số nhiều có hạn định và danh từ đi theo “những” luôn luôn đòi hỏi có định ngữ.

Bỏ “Những”: Học sinh đi khám sức khỏe.

Thêm vị ngữ: Những học sinh đi khám sức khỏe được nghỉ học sáng nay.

c) Câu thiếu chủ ngữ và vị ngữ

MH1: T (Đ).

Ví dụ: Bằng trí tuệ sắc bén và thông minh của những người lao động biết chống lễ giáo gò bó, lạc hậu.

Ở ví dụ trên, người viết không biết rằng cụm chủ vị “những người lao động biết chống lễ giáo gò bó, lạc hậu” là định ngữ của danh từ “trí tuệ” và lầm tưởng câu đã thành câu. Ta có thể chữa câu sai trên bằng 2 cách dưới đây.

Bỏ “của”: Bằng trí tuệ sắc bén và thông minh, những người lao động biết chống lễ giáo gò bó, lạc hậu.

Thêm chủ ngữ và vị ngữ: Bằng trí tuệ sắc bén và thông minh của những người lao động biết chống lễ giáo gò bó, lạc hậu, tác giả dân gian sáng tác nhiều câu chuyện cười có tính hiện thực sâu sắc.

MH2: (TN) CV.

Ví dụ: Mặc dù đến cuối năm 1995 Bộ giáo dục mới ra quyết định bổ dụng hiệu trưởng.

Ở ví dụ trên, vì có “Mặc dù” xuất hiện ở đầu câu, cụm chủ vị “Bộ giáo dục … hiệu trưởng” chỉ là phần phụ của câu ghép chính phụ. Có thể chữa câu què này bằng 2 cách dưới đây.

Bỏ “Mặc dù”: Đến cuối năm 1995, Bộ giáo dục mới ra quyết định bổ dụng hiệu trưởng.

Thêm CV làm phần chính của câu ghép chính phụ: Mặc dù đến cuối năm 1995 Bộ giáo dục mới ra quyết định bổ dụng hiệu trưởng, nhưng mọi mặt hoạt động của trường đã đi dần vào nề nếp từ giữa năm 1994.

2/ Những loại câu sai khác

a) Câu sai logic

Câu sai logic là câu vô nghĩa, câu không hợp lý.

Ví dụ: Anh bộ đội bị hai vết thương, một ở đùi và một ở đèo Ngang.

Câu trên sai về logic, vì người viết đã chuyển hướng tư duy, làm cho ý nghĩa câu văn trở nên không hợp lý. Ta có thể chữa câu sai này bằng hai cách dưới đây.

SL1: Anh bộ đội bị hai vết thương, một ở đùi và một ở ngực.

SL2: Anh bộ đội bị hai vết thương, một ở đèo Ngang và một ở đồng bằng sông Cửu Long.

b) Câu sai quy chiếu

Câu sai quy chiếu là câu có cấu trúc buộc người đọc hiểu một vật hay một người này trong khi người viết muốn chỉ một vật hay một người khác.

Ví dụ: Sau khi thi đỗ, mẹ cho tôi cái đồng hồ.

Sự thật là on thi đỗ, được mẹ thưởng cho cái đồng hồ. Nhưng viết như trên, chúng ta có thể tạo cho người đọc ý nghĩ: Mẹ thi đỗ và mẹ cho con cái đồng hồ. Như vậy là câu sai quy chiếu.

SL: Sau khi tôi thi đỗ, mẹ cho tôi một cái đồng hồ.

c) Câu sai phong cách

Câu sai phong cách là câu không phù hợp với thể loại của văn bản, không thích hợp với mục đích, tư cách của người viết.

Ví dụ: Ban chủ nhiệm!



Có rảnh thì ra chơi.

Cách đây hơn mười năm, một sinh viên khoa Văn về quê để lập gia đình và đã gửi về cho Ban chủ nhiệm của mình một văn bản mở đầu và kết thúc như trên! Ở đây có sự lẫn lộn giữa phong cách nói và phong cách viết, lẫn lộn giữa phong cách hành chính nghiêm túc và phong cách thư tín thân mật đến vô lễ.

SL: Thưa Ban chủ nhiệm,



Tôi mong có cơ hội thuận tiện để được đón tiếp Ban chủ nhiệm tại quê nhà.

IV. VIẾT CÂU HAY

Có nhiều loại câu hay. Trong phạm vi bài này, chúng ta làm quen với ba cách viết câu hay dưới đây.

1/ Câu chặt chẽ, mạch lạc

Câu hay là câu chặt chẽ về cấu trúc, từ đó có mạch lạc về ý nghĩa. Muốn viết loại câu này, ta cần nhớ ba điều dưới đây.

a) Không dùng từ nối (kết từ) “và” để nối cụm chủ vị diễn ý phụ với cụm chủ vị diễn ý chính

Ví dụ: Thằng bán tơ vu oan nên gia đình Kiều tan nát.

SL: Vì thằng bán tơ vu oan nên gia đình Kiều tan nát.

b) Không để chủ ngữ xuất hiện ở vế phụ, nếu chủ ngữ ấy đã xuất hiện ở vế chính

Ví dụ: Kiều xem chữ hiếu nặng hơn chữ tình, nàng bán mình chuộc cha.

SL: Xem chữ hiếu nặng hơn chữ tình, Kiều bán mình chuộc cha.

c) Không tạo sự lẫn lộn chủ ngữ ở trong câu

Ví dụ: Thấy cột điện đổ, cấm đến gần.

SL1: Thấy cột điện đổ, không đến gần.
SL2: Cấm đến gần cột điện đổ.

2/ Câu chính xác, rõ ràng

Câu chính xác, rõ ràng là câu chỉ có một cách hiểu. Muốn viết loại câu này, ta dùng các biện pháp dưới đây:

a) Dùng dấu câu – đặc biệt là dấu phẩy – đúng chỗ

Vi dụ: Mẹ con đi chợ chiều mới về.

SL1: Mẹ con đi chợ, chiều mới về.

SL2: Mẹ, con đi chợ, chiều mới về.

SL3: Mẹ, con đi chợ chiều, mới về.

b) Dùng từ, thường là hư từ, để bổ sung ý nghĩa

Ví dụ: Mẹ con đi chợ chiều mới về.

SL1: Mẹ và con đi chợ chiều mới về.

SL2: Mẹ của con đi chợ chiều mới về.

SL3: Mẹ ơi, con đi chợ chiều, mới về.

c) Dùng trật tự từ ngữ thích hợp với ý muốn nói

Ví dụ: Khi ăn cơm không được uống thuốc này.

SL1: Uống thuốc này khi ăn cơm không được.

SL2: Không được uống thuốc này khi ăn cơm.

3/ Câu hùng hồn, mạnh mẽ

Câu hùng hồn, mạnh mẽ là câu tác động mạnh vào thính quan của người nghe, câu khắc sâu vào tâm trí người đọc những ấn tượng, những ý nghĩ và tình cảm khó phai mờ. Để câu văn được mạnh mẽ hùng hồn, ta thực hiện các điều dưới đây.

a) Đặt chủ ngữ ở phần diễn đạt ý chính của câu

Ví dụ: Em về đến nhà, sẽ nói tất cả sự thật với chị.

SL: Về đến nhà, em sẽ nói tất cả sự thật với chị.

b) Nêu ý cần nhấn mạnh ở đầu hoặc cuối câu

Ví dụ: Bất thình lình bác Năm rút thanh sắt ra, đập mạnh xuống đầu thằng giặc, sau khi giả vờ say, thất thểu bước vào quán rượu.

SL: Giả vờ say, thất thểu bước vào quán rượu, bất thình lình bác Năm rút thanh sắt ra, đập mạnh xuống đầu thằng giặc.

c) Dùng câu có cấu trúc song hành (câu đối) để nhấn mạnh một vài ý quan trọng

Ví dụ: Quân đội ta quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ, vượt qua những khó khăn và đánh thắng bất kì kẻ thù nào, dù chúng hung ác đến đâu.

SL: Quân đội ta, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Viết câu sai là lỗi diễn đạt khá phổ biến và thường có ảnh hưởng lớn đến giá trị của văn bản. Trong một thời gian nhất định, các bạn trẻ cần tập trung sức để rèn luyện kĩ năng viết câu đúng và sau đó tiến dần đến nghệ thuật viết câu hay.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top