BA MƯƠI TRIẾT GIA TÂY PHƯƠNG
Tác giả: Nguyễn Ước
Tác giả: Nguyễn Ước
1. Socrates (469-399 TCN)
Triết gia Hi Lạp. Người thành Athens.
Socrates được xem là người khai mở thời kỳ thứ hai của triết học Hi Lạp và bắt đầu triết học Tây phương từ gần 25 thế kỷ nay. Có người so sánh ông với Khổng Tử, vị vạn thế sư biểu á đông.
Nổi tiếng vì quan điểm nhìn triết học như cuộc tìm kiếm thích đáng và thiết yếu cho mọi người có trí tuệ, ông là gương mẫu vĩ đại và có tính lịch sử của một người sống theo niềm tin, sứ mệnh và nguyên tắc của mình cho dẫu phải trả giá bằng mạng sống, vì cái chết lúc ấy chỉ như một cam kết bảo đảm cho chân lý của lời mình phát biểu.
Những gì hậu thế biết về con người và lời giảng của Socrates đều gián tiếp qua các đối thoại, khi rõ nét khi thấp thoáng, của Platon và cuốn Memorabilia của Xenophon; cả hai đều là môn đệ ông. Bất chấp những thông giải không giống nhau về lời giảng của sư phụ, tường trình của hai tác giả ấy bổ sung nhau trên một qui mô lớn, biến con người và niềm tin của Socrates trở thành bất tử.
Socrates là con của Sophroniscus, một người tạc tượng. Người ta nói rằng những năm mới vào đời, ông theo nghề nghệ thuật của phụ thân. Tới tuổi trung niên, ông kết hôn với Xanthippa, người theo truyền thuyết là một phụ nữ đanh đá dù những chuyện kể về bà ít có cơ sở thực tế xác minh — Will Durant cho rằng bà là người yêu Socrates và rất đau buồn trước cái chết của người bạn tinh thần.
Cũng không thể biết chắc các vị thầy dạy triết cho Socrates là ai, nhưng dường như ông đã làm quen với các học thuyết của Parmenides, Heraclitus, Anaxagoras cùng những người theo thuyết nguyên tử; họ ở trong những vị được hậu thế xếp vào hàng ngũ ‘các triết gia tiền Socrates’.
Trước năm 40 tuổi, Socrates nổi tiếng về năng lực trí tuệ. Theo tường trình của Plato về lời biện minh của Socrates trong phiên tòa xử ông, lời sấm ở đền Delphi tuyên bố Socrates là người thông thái nhất Hi Lạp. Trong diễn từ đó, Socrates quả quyết rằng lời sấm nói ông sáng suốt có lẽ là vì ông nhận ra rằng mình chẳng biết gì cả trong khi những người tự xưng thông thái không nhận ra sự ngu dốt của họ.
Socrates bắt đầu tin rằng thiên hướng của ông là tìm kiếm minh triết và đức hạnh chân chính để qua đó ông có thể hướng dẫn người dân thành quốc Athens cải thiện đạo đức và trí tuệ. Vì thế, hoàn toàn bỏ sang một bên sinh kế cùng những công việc riêng tư, ông dành trọn thì giờ thảo luận về đức hạnh, công bình, lòng mộ đạo ở bất cứ nơi nào đồng bào ông hằng ngày tụ họp. Ông thường qui tụ quanh mình một nhóm thanh niên và truyền cho họ tình yêu tra vấn, dẫn tới tri thức và công chính.
Một số người cảm thấy Socrates cũng lơ là nghĩa vụ công cộng vì ông không bao giờ tìm cách tham chính dù nổi tiếng can trường trong các chiến dịch thời ông đi nghĩa vụ quân sự. Trong công tác tự mình đề ra cho mình như một người châm biếm những kẻ nổi tiếng về chính trị và trí thức của thành Athens, Socrates tạo nên nhiều kẻ thù, Aristophane nhại diễu Socrates trong vở kịch The Clouds (Các đám mây) của mình, và qui cho ông một số khuyết điểm của các biện sĩ, là những người giỏi ngụy luận, nhận thù lao để dạy khoa hùng biện. Dù Socrates thường trêu tức các biện sĩ, nhưng những người kết án ông dường như duy trì một quan điểm chung với Aristophane.
Năm 399 TCN, Socrates bị đem ra tòa án Athens, xử về cáo giác tội làm hư hoại thanh niên, đặc biệt những môn đệ hằng ngày ở bên ông, và tội bất kính thần linh thành Athens cùng giới thiệu các thần linh xa lạ. Phiên tòa bị vây phủ các vấn đề chính trị phức tạp nhưng dường như Socrates bị xử như một người bạn và người thầy của hai kẻ đã phản bội Athens là Critias và Aleibiades. Diễn tiến vụ xử án và cái chết của Socrates được mô tả trong cuốn Apology, Crito và Phaedo của Platon với sức mạnh đầy kịch tính. Những giờ đi vào cõi chết của ông được Plato kể lại với giọng cảm động như một bài thơ bi tráng. Bạn đọc Việt ngữ có thể tìm thấy trong cuốn Câu chuyện triết học của Trí Hải và Bửu Ðích (bản dịch từ cuốn The Story of Philosophy của Will Durant).
Socrates đóng góp cho triết học một định hướng nhân văn cùng phương pháp mới mẻ tiếp cận tri thức, một khái niệm về linh hồn như tâm điểm của ý thức tỉnh táo bình thường lẫn đặc tính đạo đức và về ý nghĩa vũ trụ như một tinh thần ngăn nắp có chủ ý. Kỹ thuật tra vấn của ông — được gọi là phương pháp Socrates — là yêu cầu người đối thoại định nghĩa các khái niệm có ý nghĩa đạo đức, thí dụ công bình, dũng cảm, mộ đạo, v.v. để cho thấy những mâu thuẩn trong câu trả lời, qua đó phô bày sự ngu dốt của kẻ trả lời, và thúc đẩy phải tra vấn thêm nữa các khái niệm. Phương pháp đó, gọi là biện chứng pháp, cốt ở chỗ dùng hình thức vấn đáp để khảo sát những lời phát biểu, bằng cách tra xét định nghĩa, đào sâu khái niệm, truy nã nội hàm của chúng, với giả định rằng một lời phát biểu đúng không thể nào dẫn tới hệ quả sai. Phương pháp này có thể do triết gia Zeno thành Elea gợi ra từ trước, nhưng được Socrates cải tiến và áp dụng vào các vấn đề luân lý.
Socrates thường nhấn mạnh câu châm ngôn khắc trên cửa đền Delphi là ‘Người ơi, hãy tự biết mình’. Khác với những triết gia về trước, Socrates quan tâm chủ yếu các vấn đề thuộc nội tâm con người; ông xem chúng ưu tiên hơn các vấn đề thuộc thế giới vật lý. Học thuyết của Socrates đưa ông tới niềm tin rằng mọi đức hạnh đều qui về một mối, đó là cái thiện, hoặc sự tự am hiểu bản ngã — ‘cái tôi’ chân chính của ta — cùng những cứu cánh của nó qua quá trình diễn tiến cuộc đời mình. Rồi tới lượt tri thức tùy thuộc vào bản tính hoặc yếu tính của vạn vật đúng như chúng hiện hữu, thí dụ hình thái của vật thì thật hơn bản sao mà chúng ta có được từ kinh nghiệm cảm giác.
Khái niệm ấy dẫn tới một thế giới quan có tính cứu cánh luận, cho rằng hết thảy các hình thái đều dự phần vào và dẫn tới một hình thái cao nhất, đó là hình thái của cái thiện. Các ý tưởng ấy về sau được Plato trau chuốt tỉ mỉ thành tâm điểm cho học thuyết triết lý của mình.
Quan điểm của Socrates thường được mô tả bằng lập trường cho rằng mục đích của tri thức là đức hạnh — tri thức và đức hạnh là một — khiến con người không thể làm điều sai trái một cách chủ tâm. Vì đức hạnh đồng hóa với tri thức nên có thể giảng dạy nó. Nhưng việc giảng dạy ấy không phải là một nghề mưu sinh như các biện sĩ chuyên nghiệp và trá ngụy đem ra dạy bảo.
Tuy thế, trước khi đưa chén thuốc độc lên môi, chấp nhận cái chết như một hình thức làm chứng cho chân lý và bảo vệ quyền tự do tư tưởng, dù có thể bỏ trốn sang thành quốc khác, bản thân Socrates không đưa ra câu trả lời dứt khoát làm thế nào con người có thể học hỏi về đức hạnh.
2. PLATO (427-347 TCN)
Triết gia Hi Lạp, sở hữu tên Plato do bởi có lần đoạt giải vô địch trong một đại hội điền kinh cấp quốc gia.
Ông xuất thân từ một gia đình đại quí tộc, cháu ngoại của Solon, một trong bảy vị hiền triết Hi Lạp và là nhà lập pháp, còn bên nội ông lại thuộc dòng dõi của vị vua Athens cuối cùng là Codrus.
Người ta biết rất ít về thời trẻ của ông ngoài việc từ năm 20 tuổi, ông là một môn đệ tận tụy của Socrates. Sau khi sư phụ qua đời, Plato du hành tới rất nhiều nơi. Từ Mega, Plato du hành sang Cyrene, Ai Cập và Ý. Tại đó, ông đi lại với giáo đoàn Pythagoras và tiêm nhiễm học thuyết của họ.
Năm 388, Plato rời Athens sang sống một thời gian trong triều đình của bạo chúa Dionysus Cả ở Syracuse. Bị vị vua ấy ngược đãi, đem bán cho nô lệ, may nhờ nhà hiền triết Annikeris ở Cyrenaique chuộc với giá 20 đồng mines và giải phóng ông.
Tới năm 367, ông thành lập trường Academy, với câu châm ngôn treo trước cửa ‘Kẻ nào không thông suốt hình học thì xin chớ vào đây’. Tại đó, ông dạy toán học và triết học cho tới ngày qua đời. Việc dạy học của ông có bị gián đoạn hai lần vì đến thăm Syracuse — vào năm 368 và năm 361 — với vị vua mới và hoài bảo vô vọng thực hiện các lý tưởng chính trị của mình ở đảo quốc Sicily.
Tác phẩm của Plato truyền lại cho hậu thế dưới hình thức các văn bản đối thoại và thư từ. Một số đối thoại và nhiều thư từ qui cho ông đã được xác minh là thực, một số đáng ngờ. 35 bài đối thoại ấy, hoặc nhiều hơn, của Plato, thường được chia thành 3 nhóm theo 3 thời kỳ của đời ông.
Nhóm sớm sủa nhất, được gọi là mang bản sắc Socrates, chủ yếu gồm Apology, ghi lại lời biện hộ của Socrates; Meno, đặt vấn đề có thể hay không thể giảng dạy đức hạnh; và Georgias quan tâm tới bản tính tuyệt đối của ‘phải’ và ‘trái’. Các văn bản sớm sủa ấy trình bày Socrates bằng những cuộc đối thoại minh họa các ý tưởng chính của ông: tính đồng nhất của đức hạnh và tri thức, của đức hạnh và hạnh phúc. Mỗi đối thoại ứng xử với một vấn đề cá biệt nhưng không nhất thiết giải quyết rốt ráo vấn đề ấy.
Plato luôn luôn quan tâm tới một vấn đề nền tảng của triết học, đó là đề ra tỉ mỉ lý thuyết về nghệ thuật sống và hiểu biết. Giống như vị đại sư phụ kính yêu, Plato bắt đầu với niềm xác tín vào cấu trúc hòa điệu một cách tối hậu của vũ trụ, nhưng ông đi xa hơn trong nỗ lực thiết lập một lược đồ triết học tổng hợp. Mục tiêu của Plato là trình bày mối tương quan hợp lý giữa linh hồn, quốc gia và vũ trụ. Ðó là chủ đề bao quát của Republic, Phaedo, Symposium, Theaetus, Phaedrus, Timaeus và Philebus, những đối thoại qui mô được ông viết ra trong tuổi trung niên.
Cũng trong những đối thoại ấy, Plato triển khai các học thuyết tích cực của mình. Thí dụ tri thức như một hồi tưởng, sự bất tử của linh hồn, sự phân chia linh hồn thành ba thành phần. Và trên tất cả là lý thuyết về các ‘hình thái’ (hoặc các ‘ý tưởng’) thường hằng, tương phản với thế giới vật chất nhất thời của các ‘đặc thù’ (các đối tượng đơn thuần của nhận thức giác quan, ý kiến và niềm tin) cùng thế giới bất biến, phi thời gian, của những cái phổ quát hoặc hình thái (các đối tượng chân chính của tri thức).
Trong Republic, Plato trình bày làm thế nào thao tác của công bình trong một cá nhân, qua cách áp dụng phép loại suy, có thể đưa tới sự am hiểu sâu sắc về thao tác của công bình trong một quốc gia, để từ đó tiến tới theo mô hình quốc gia lý tưởng được ông thành lập bằng khái niệm và cho nó sinh hoạt trong thế giới ý tưởng của ông. (Kể từ giây phút đó, nó trở thành nguồn cảm hứng cho mọi tưởng quốc Utopia được hàng chục triết gia và nhà xã hội thiết lập trong tác phẩm của họ rải rác suốt hai ngàn năm sau). Tuy thế, theo Plato, không thể am hiểu đầy đủ về công bình nếu không nhìn nó trong tương quan với Ý tưởng về cái Thiện, cái là nguyên tắc tối thượng của trật tự và chân lý.
Chính trong đối thoại Republic mà các Ý tưởng nổi tiếng và tiêu biểu cho bản sắc Plato được ông đem ra trình bày dưới hình thức thảo luận. Plato lập luận biện hộ cho thực tại độc lập của Ý tưởng, như một bảo đảm duy nhất cho các định chuẩn đạo đức và tri thức khoa học khách quan. Như đã nói ở trên, trong cuốn ấy và Phaedo, ông mặc nhiên công nhận lý thuyết của mình về các ‘hình thái’ (forms). Các ý tưởng về ‘hình thái’ là các Tổng kiểu thức (Archtypes) bất di bất dịch của mọi hiện tượng nhất thời, và chỉ những Ý tưởng mới hoàn toàn thật, còn thế giới vật lý chỉ sở hữu thực tại tương đối. Các ‘hình thái’ bảo đảm trật tự và trí huệ trong một thế giới đang trong trạng thái biến đổi liên tục và không ngớt. Chúng cung cấp mẩu thức (pattern) để từ đó thế giới giác quan rút ra ý nghĩa của nó. Ý tưởng tối thượng là Ý tưởng về cái Thiện mà chức năng và địa vị của nó trong thế giới Ý tưởng tương tự chức năng và địa vị của mặt trời trong thế giới vật lý.
Plato thấy mình có sứ mệnh hướng dẫn loài người tới việc nhận ra các hình thái và tới dấu vết của cái thiện tối thượng. Con đường chân chính ấy được gợi ra trong ẩn dụ ‘Cái hang’ nổi tiếng của ông. Trong Republic, con người trong trạng thái chưa được dạy bảo, bị xiềng xích trong thế giới của các chiếc bóng. Tuy thế, con người có thể chuyển động hướng tới mặt trời, hoặc cái thiện tối thượng bằng cách học tập cái được Plato gọi là biện chứng pháp. Biện chứng pháp là khoa học cao nhất, là phương pháp thẩm tra được tiến hành bằng việc chất vấn các giả định, bằng việc giải thích một ý tưởng đặc thù trong tương quan với ý tưởng tổng quát hơn, cho tới khi đạt được cơ sở giải thích tối hậu.
Republic, cuốn Utopia đầu tiên trong văn học thế giới, quả quyết ràng triết gia là kẻ duy nhất có năng lực cai trị quốc gia công chính do Plato mô tả, vì qua học hỏi biện chứng pháp, kẻ ấy am hiểu sự hòa điệu của mọi thành phần trong vũ trụ trong tương quan của chúng với Ý tưởng về cái Thiện. Mỗi giai cấp xã hội sung sướng thể hiện chức năng thích hợp với nó: triết gia cai trị, chiến sĩ đánh giặc và người lao động thưởng thức thành quả lao động của mình.
Trong Symposium, bản văn có lẽ thi vị nhất trong các đối thoại, con đường dẫn tới cái thiện tối thượng được mô tả như hành động hướng thượng qua những tình nhân chân chính yêu nhau trong tình yêu cái đẹp hằng cửu, được người đời truyền tụng là ‘tình yêu lý tưởng kiểu Plato’. Và trong Phaedo, con đường ấy được Plato nhìn như cuộc hành hương của triết gia đi qua cái chết để tới thế giới của chân lý vĩnh cửu. Trong những đối thoại về sau, có nhiều cuộc dành cho các chủ đề kỹ thuật triết học. Trong đó, quan trọng nhất là Parmenides ứng xử với tương quan giữa nhiều cái khác nhau, và Sophist thảo luận về bản tính của phi hữu thể. Tác phẩm cuối cùng và dài nhất của Plato là Laws (Luật pháp) thảo luận bằng từ ngữ thiết thực về bản tính của quốc gia.
Những lời giảng của Plato về học thuyết lý tưởng của ông ở trong số những tư tưởng có ảnh hưởng nhất trong lịch sử văn minh phương Tây. Suốt hơn hai ngàn năm qua, trong các đối thoại muôn hình muôn vẻ, ông chạm tới hầu hết các vấn đề chiếm lĩnh tâm trí các triết gia đi sau ông, đặc biệt trong thần học Kitô giáo thiên niên kỷ thứ nhất. Plato cũng là một nghệ sĩ vĩ đại; các tác phẩm đầy thi vị và tráng lệ của ông là có chỗ đứng lộng lẫy trong kho tàng văn học thế giới.
(Còn nữa)