minhnguyencvh
New member
- Xu
- 0
Nền văn học của bất kỳ dân tộc nào cũng như lịch sử phát triển của dân tộc đó, để tồn tại cho đến ngày nay, nó đều phải dựa trên cơ sở của cái cũ và phát triển thêm của cái mới. Nền văn học của dân tộc Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật phát triển đó. Theo nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học thành văn Việt Nam, giáo trình Văn học dân gian nhận định: “ Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm, nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng, là thi liệu, văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc( Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,….) đã tiếp thu có kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú” .Và không chỉ riêng văn học dân gian có ảnh hưởng to lớn đến văn học viết. Mà ngược lại, văn học viết cũng có những ảnh hưởng không nhỏ cho nền văn học dân gian. Chính những sáng tác của các nhà thơ, nhà văn đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của các sáng tác dân gian. Nhiều tác phẩm của họ được dân gian hoá, làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian dân gian. Các tác giả dân gian cũng học tập được nhiều điều bổ ích từ sáng tác của các nhà văn nhà thơ chuyên nghiệp. Họ đã khai thác không ít điển cố, điển tích, từ ngữ, hình ảnh…trong văn học viết để đưa vào các bài vè , câu hát …. Mối quan hệ và tác động qua lại giữa hai bộ phận văn học là mối quan hệ rất khăng khít và lâu bền.
Và không một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hoá lớn nào của nước ta không khẳng định, tôn vinh giá trị bất hủ của văn học dân gian. Và nhà thơ dân tộc lớn đầu tiên của nước ta, Nguyễn Trãi, đã nêu một tấm gương sáng trong việc vận dụng và làm phong phú hơn cho nền văn học dân gian. Bên cạnh tập thơ chữ Hán ( Ức Trai thi tập), Nguyễn Trãi đã để lại cho đời một tập thơ Nôm là “Quốc âm thi tập”- Tập đại thành văn học trung đại. Trong tập thơ này, chúng ta thấy Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn học dân gian như củ khoai, quả ủi, bè rau muống, dậu mùng tơi…Vốn rất xa lạ với văn chương bác học nhưng đã được Nguyễn Trãi đưa vào thơ Nôm của mình hết sức tự nhiên. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao những đặc điểm thanh điệu tất cả những khả năng phong phú ấy của ngôn ngữ dân gian đã được khai thác một cách tài tình, để cho hình tượng thơ có nhiều màu sắc dân giã và lời thơ có nhiều âm điệu phong phú qua đó đã làm phong phú cho kho tàng văn học dân tộc và cho chính hồn thơ của mình.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai vốn là bậc đại thần thời Hậu Lê có nhiều cống hiến vĩ đại cho dân tộc. Được tôn vinh như thế bởi Nguyễn Trãi chính là người anh hùng, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà thơ lớn, nhà sử học, địa lí học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Ông xứng đáng với danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới mà UNESSCO đã công nhận cũng như câu nói “ Kinh bang hoa quốc, cố vô tiền” ( Dựng nước và làm vẻ vang Tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông ).
Xét từ phương diện sáng tác thơ văn, Nguyễn Trãi là một tác gia xuất sắc trên nhiều loại hình văn học. Khi ra đi, ông đã để lại cho dân tộc ta một khối lượng lớn các tác phẩm có giá trị văn chương cao mà trong đó có thể kể đến Quốc âm thi tập là một tuyển tập gồm 254 bài thơ làm bằng chữ Nôm được chia làm bốn môn loại là Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn và Cầm thú môn. Không chỉ được đánh giá là tác phẩm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc có chỗ đứng quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, Quốc âm thi tập còn được coi là tác phẩm đã có công đầu trong công cuộc khẳng định sự tồn tại của dòng văn học tiếng Việt cũng như vai trò và khả năng thẩm mĩ, phản ánh xã hội và tâm trạng của con người.
Vì là một tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc, ra đời trong những bước đi đầu tiên của nền văn học viết cho nên, có thể chắc chắn rằng trong Quốc âm thi tập không thể thiếu các chất liệu của văn học dân gian. Điều này cũng được giải thích rất xác đáng rằng, bất cứ nền văn học thành văn của bất cứ quốc gia nào cũng lấy văn học dân gian làm nền tảng, đặc biệt là đối với một đất nước bị ngoại bang xâm chiếm kéo dài hơn 1000 năm như Việt Nam thì đ
Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy quan niệm đạo đức, những bài học về luân lý và những lời giáo huấn, răn dạy của Nguyễn trãi hết sức sâu sắc và sống động, thể hiện một tư tưởng mới, vượt thời gian đến tận hôm nay và mai sau. Nói đến tính giáo huấn, giáo dục, không chỉ có tập Quốc Âm thi tập mà hầu hết ở các tác phẩm cũng có. Tuy nhiên Nguyễn Trãi là người đầu tiên dùng ngôn ngữ của dân tộc và dùng những chiêm nghiệm, những suy từ, trăn trở cuả mình mà ông đã tiếp thu được đúc kết trong văn học dân gian để trở thành những bài học răn dạy nhân dân.Là sáng tác nghệ thuật của nhân dân, tác phẩm văn học dân gian phản ánh và biểu hiện đời sống tình cảm, thế giới tinh thần của nhân dân. Đó là toàn bộ cuộc sống sinh hoạt, lao động và tinh thần của họ. Hơn nữa, phản ánh đời sống của những người lao động bình dân, văn học dân gian luôn đề cập đến những vấn đề thân thiết với nhân dân và lí giải chúng theo quan điểm của người dân. Qua đó biểu đạt những kinh nghiệm đời sống, diễn tả những khát vọng và lí tưởng, quan niệm của nhân dân về con người, tự nhiên và xã hội.
Trước hết Nguyễn Trãi đã răn dạy người đời về việc học tập, trong nhiều bài thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng khá nhiều tục ngữ, thành ngữ:
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu tốt đều thì lắp khuôn
Lân cận nhà giàu , no bữa cốm
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn
Chơi cùng đứa dại nên bầy dại
Kết với người khôn học nết khôn
Ở đằng thấp thì nên đằng thấp
Đen gần mực , đỏ gần son.
(Bảo kính cảnh giới 21)
Đọc bài thơ này chúng ta dễ dàng nhận thấy Nguyễn Trãi đã vận dụng sáng tạo nhiều tục ngữ: - Ở bầu thì tròn , ở ống thì dài
- Ở gần nhà giàu đau răng ăn cốm
Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn
- Gần mực thì đen gần đèn thì sáng
Không chỉ có thơ khuyên nhủ lòng mình, răn dạy, giáo dục con cái và mọi người một cách thấu tình đạt lí về đạo đức, gần gũi với nhân dân. Học không chỉ mang lại tri thức để đối phó với đời, cải tạo cuộc đời, cải tạo cuộc sống bản thân, gia đình mình mà học còn là để giúp mình đứng vững, có cách cư xử tốt, linh hoạt trong cuộc sống. Những câu thơ của ông, nói về đạo đức, luân thường đạo lí như là những câu tục ngữ hàm súc, mang tính triết lí cao mà giàu hình ảnh, nhịp điệu... Chính vì thế, những kinh nghiệm được Nguyễn Trãi nêu ra trong bài thơ rất gần gũi với dân gian, dễ được nhân dân tiếp nhận và qua đó phản ánh cốt cách thân dân của nhà yêu nước vĩ đại xứng danh “ Ức trai tâm thượng quang khuê tảo" (Lê Thánh Tông).
Ca dao có câu:
Dừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều.
Quốc âm thi tập thật sự là những bài học về luân lý, đạo đức. Trên cơ sở tiếp thu chất liệu của văn học dân gian, trước hết là ở nội dung tư tưởng, Nguyễn Trãi đã chuyển tải tiếng nói của cha ông xưa đến các thế hệ con cháu mai sau. Mặt khác, Nguyễn Trãi không chỉ vận dụng mà còn có sáng tạo độc đáo. Những bài học ông nêu ra không phải có tính chất giáo huấn suông mà ông cố gắng ghép nó, đặt nó trong một hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống.
Ngoài ra, Quốc âm thi tập còn vận dụng ngôn ngữ của thành ngữ, tục ngữ, ca dao của ngôn ngữ đời thường một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo. Đại thi hào Nga, Gorki dã từng nói: “Văn học dân gian là ngọn nguồn đầu tiên của nghệ thuật ngôn từ”. Qua đó chúng ta thấy được vị trí, vai trò to lớn của ngôn ngữ văn học dân gian trong việc hình thành tiếng nói của dân tộc. Nguyễn Trãi, nhà thơ, nhà văn đầu tiên của dân tộc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, vận dụng chất liệu văn học dân gian để sáng tạo ra những tác phẩm văn chương kiệt xuất. Phải nói rằng, Nguyễn Trãi đã tạo nên: “Nhịp cầu nối làm cho thơ ca dân gian và thơ ca bác học xích lại gần nhau; làm cho thơ ca Việt Nam khắc phục được những ảnh hưởng ngoại lai và phát triển mạnh mẽ theo hướng ngày càng được dân tộc hoá và đại chúng hoá”.
Ở Quốc âm thi tập có sử dụng lớp từ vựng khẩu ngữ. Mặc dù sử dụng khẩu ngữ thế nhưng đọc Quốc âm thi tập ta không hề thấy khô khan. Bằng tài năng và cái tâm của một con người suốt đời vì dân, vì nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, Nguyễn Trãi đã vận dụng linh hoạt khẩu ngữ, tạo nên những sáng tạo độc đáo. Vì thế, lời thơ trở nên dung dị, uyển chuyển, trong sáng, gần gũi với nếp cảm, nếp nghĩ của người dân.
Trong bài Ngôn chí 10 ông có sử dụng từ khẩu ngữ mang tính chất tượng hình:
Thông qua từ “hớp” nó đã lột tả được tư thế chủ động của tác giả: chủ động giao cảm, giao hoà với thiên nhiên, chủ động vật chất hoá thiên nhiên, thuần hoá thiên nhiên thành sự vật cụ thể. Hình ảnh ánh trăng được Nguyễn Trãi nâng niu đón nhận. Ông hớp chén rượu in bóng trăng mà ngỡ như mình uống trăng thật. Rõ ràng cách dùng từ của Nguyễn Trãi thật là độc đáo.
Như vậy, Nguyễn Trãi đã đưa khẩu ngữ hằng ngày vào thơ ca và tận dụng khả năng của khẩu ngữ ấy để tả cảnh, tả lòng, tả người, tả vật. Tất nhiên, những khẩu ngữ ấy là chất liệu của văn học dân gian. Đến lượt Nguyễn Trãi bằng vốn am hiểu đời sống của nhân dân, bằng cái tài vận dụng ngôn ngữ, ông đã gọt giũa, cách điệu hoá ngôn ngữ dân gian để biểu đạt một cách rất nhuần nhị.
Bên cạnh việc sử dụng lớp từ vựng khẩu ngữ trên, trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi còn sử dụng một số lượng lớn thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Trong bài Bảo kính cảnh giới 46 các thành ngữ “hai thớ ba dòng”, “một cơm hai việc” được Nguyễn Trãi sử dụng nguyên dạng, dồn dập nhưng không gây cảm giác nặng nề, ôm đồm, chồng chất mà ngược lại lại rất tự nhiên, giàu hình ảnh và không kém phần cụ thể sinh động:
Trong dân gian, thành ngữ “một cơm hai việc” chỉ đức tính ăn ít làm nhiều, có hiệu quả cao, còn thành ngữ “hai thớ ba dòng” chỉ người không nguyên nhất, không tập trung vào một công việc gì, một nghề gì. Hai thành ngữ đứng liền nhau trong hai câu thơ như đối lập nhau ở hai đức tính con người. Một đức tính thì được người đời quý trọng, ngợi khen, còn đức tính kia bị phê phán, cần phải thay đổi để hoàn thiện mình hơn.
Ngoài việc rút ý từ những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao ngắn gọn sẵn có, Nguyễn Trãi còn vận dụng những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao rất dài. Tục ngữ có câu:
“Khôn cho người ta dạy, dại cho người ta thương,
Dở dở ương ương chỉ tổn cho người ta ghét.”
được Nguyễn Trãi rút gọn, cắt ra làm thành hai câu phá đề trong bài Bảo kính cảnh giới 30:
Như vậy, Quốc Âm thi tập tiêu biểu cho việc dùng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập, ta thấy Nguyễn Trãi hiểu ngôn ngữ dân tộc như thế nào. Có thể nói mỗi hình thức sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao, trong Quốc âm đều thể hiện những sáng tạo nhất định. Chú ý hơn cả là cách dùng ý tài tình từ những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao cộng với việc thay đổi hình thức ngôn ngữ cho phù hợp với nội dung và hình thức bài thơ khiến cho chúng ta khi đọc thơ Quốc âm vừa có cảm giác quen, vừa có cảm giác lạ. Quen vì nó mang dáng dấp của tục ngữ, ca dao, lạ vì nó Nguyễn Trãi đã sáng tạo theo phong cách riêng khó lẫn.
Văn học dân gian là kho tàng vô giá phản ánh cuộc sống sinh hoạt củanhân dân. Ở đó ta thấy, ở họ là nghị lực sống phi thường, họ vẫn cần cù lao động, làm ra những hạt lúa, củ khoai… Cho nên khó khăn là vậy nhưng họ luôn có ý thức về những sản phẩm do chính bàn tay mình làm ra:
Ta ở kẻ Láng, vốn nhà trồng rau.
“Rau thơm, rau húng, rau mùi,
Tiếp thu hệ thống hình ảnh ca dao, đồng thời trên cơ sở của ý thức trân trọng, nâng nui thành quả lao động của bản thân và của mọi người. Nguyễn Trãi cũng đã hơn một lần nhắc tới từ “rau”: “Rau trong nội, cá trong ao”. Chúng ta thấy xuất hiện trong Quốc âm thi tập, bên cạnh rau muống, dọc mùng, còn có mồng tơi, kê khoai, núc nác….là những sản vật dân giã hằng ngày, gần gũi với đời sống của người dân Việt, đặc biệt là ở vùng nông thôn Việt Nam:
Nguyễn Trãi, luôn có tư tưởng thân dân, yêu thương nhân dân hết mực nên những vần thơ của ông rất gần gũi nhân dân. Thật đúng, “Nguyễn Trãi phần nào phát hiện được mối quan hệ giàu giá trị nhân văn chủ nghĩa thường chỉ xuất hiện trong tục ngữ, ca dao: mối quan hệ giữa thiên nhiên và đời sống lao động sản xuất của con người”.
Bên cạnh đó, đọc Quốc âm thi tập, chúng ta thấy Nguyễn Trãi đã phối hợp nhuần nhuyễn cách bắt vần trong tục ngữ. Tục ngữ có cách cách bắt vần chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ đầu nhịp sau. Đây được gọi là cách bắt vần theo kiểu vần liền (vần lưng sát):
Chẳng hạn:
- Bút sa, gà chết.
- Của một đồng, công một nén.
- Ếch tháng ba, gà tháng bảy.
Thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, có rất nhiều bài thơ có những câu kết hợp kiểu bắt vần trên:
Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người”
( Tự Thán 6)
Nếu so sánh vần trong câu thơ thất ngôn hay lục ngôn của Nguyễn Trãi với thơ lục bát và song thất lục bát, chúng ta thấy ở Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng rất nhiều vần lưng ở những vị trí khác nhau. Phổ biến nhất là vần ở chữ thứ năm: vần ở cuối câu thơ trên hiệp với vần ở chữ thứ tư hoặc thứ năm trong câu thơ dưới:
“Dễ hay ruột biển sâu cạn
(Tự thuật 19) Nguyễn Trãi đã sử dụng một số lượng lớn thành ngữ, tục ngữ và ca dao, tạo nên tính dân tộc, tính đại chúng đậm đà.
Tục ngữ: + nhịp 3/4 đơn:
Trong Quốc Âm thi tập:
Muốn ăn trái, dưỡng nên cây
Ai học thì hay, Mực lệ chầy”
(Bảo kính cảnh giới 10)
+ nhịp 3/4 đôi:
Tục ngữ:
Trong Quốc Âm thi tập:
“Trúc Tưởng Hủ, nên thêm tiết cứng
Mai Lâm Bô, đâm được câu thần”
(Tự thán 11)
Ca dao:
Nguyễn Trãi đã vận dụng cách ngắt nhịp 3/4 trong những câu thơ song thất lục bát vào trong thơ mình. Hiện tượng hai câu bảy chữ đi liền nhau theo kiểu ngắt nhịp như trên khá phổ biến.
Cửa quyền quý / ngại bếm chân tay.
(Ngôn chí 4)
Và không một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hoá lớn nào của nước ta không khẳng định, tôn vinh giá trị bất hủ của văn học dân gian. Và nhà thơ dân tộc lớn đầu tiên của nước ta, Nguyễn Trãi, đã nêu một tấm gương sáng trong việc vận dụng và làm phong phú hơn cho nền văn học dân gian. Bên cạnh tập thơ chữ Hán ( Ức Trai thi tập), Nguyễn Trãi đã để lại cho đời một tập thơ Nôm là “Quốc âm thi tập”- Tập đại thành văn học trung đại. Trong tập thơ này, chúng ta thấy Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn học dân gian như củ khoai, quả ủi, bè rau muống, dậu mùng tơi…Vốn rất xa lạ với văn chương bác học nhưng đã được Nguyễn Trãi đưa vào thơ Nôm của mình hết sức tự nhiên. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao những đặc điểm thanh điệu tất cả những khả năng phong phú ấy của ngôn ngữ dân gian đã được khai thác một cách tài tình, để cho hình tượng thơ có nhiều màu sắc dân giã và lời thơ có nhiều âm điệu phong phú qua đó đã làm phong phú cho kho tàng văn học dân tộc và cho chính hồn thơ của mình.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai vốn là bậc đại thần thời Hậu Lê có nhiều cống hiến vĩ đại cho dân tộc. Được tôn vinh như thế bởi Nguyễn Trãi chính là người anh hùng, là nhà chính trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà thơ lớn, nhà sử học, địa lí học, nhà làm luật pháp và âm nhạc xuất sắc. Ông xứng đáng với danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới mà UNESSCO đã công nhận cũng như câu nói “ Kinh bang hoa quốc, cố vô tiền” ( Dựng nước và làm vẻ vang Tổ quốc, từ xưa chưa ai được như ông ).
Xét từ phương diện sáng tác thơ văn, Nguyễn Trãi là một tác gia xuất sắc trên nhiều loại hình văn học. Khi ra đi, ông đã để lại cho dân tộc ta một khối lượng lớn các tác phẩm có giá trị văn chương cao mà trong đó có thể kể đến Quốc âm thi tập là một tuyển tập gồm 254 bài thơ làm bằng chữ Nôm được chia làm bốn môn loại là Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn và Cầm thú môn. Không chỉ được đánh giá là tác phẩm đầu tiên viết bằng ngôn ngữ dân tộc có chỗ đứng quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, Quốc âm thi tập còn được coi là tác phẩm đã có công đầu trong công cuộc khẳng định sự tồn tại của dòng văn học tiếng Việt cũng như vai trò và khả năng thẩm mĩ, phản ánh xã hội và tâm trạng của con người.
Vì là một tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc, ra đời trong những bước đi đầu tiên của nền văn học viết cho nên, có thể chắc chắn rằng trong Quốc âm thi tập không thể thiếu các chất liệu của văn học dân gian. Điều này cũng được giải thích rất xác đáng rằng, bất cứ nền văn học thành văn của bất cứ quốc gia nào cũng lấy văn học dân gian làm nền tảng, đặc biệt là đối với một đất nước bị ngoại bang xâm chiếm kéo dài hơn 1000 năm như Việt Nam thì đ
Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy quan niệm đạo đức, những bài học về luân lý và những lời giáo huấn, răn dạy của Nguyễn trãi hết sức sâu sắc và sống động, thể hiện một tư tưởng mới, vượt thời gian đến tận hôm nay và mai sau. Nói đến tính giáo huấn, giáo dục, không chỉ có tập Quốc Âm thi tập mà hầu hết ở các tác phẩm cũng có. Tuy nhiên Nguyễn Trãi là người đầu tiên dùng ngôn ngữ của dân tộc và dùng những chiêm nghiệm, những suy từ, trăn trở cuả mình mà ông đã tiếp thu được đúc kết trong văn học dân gian để trở thành những bài học răn dạy nhân dân.Là sáng tác nghệ thuật của nhân dân, tác phẩm văn học dân gian phản ánh và biểu hiện đời sống tình cảm, thế giới tinh thần của nhân dân. Đó là toàn bộ cuộc sống sinh hoạt, lao động và tinh thần của họ. Hơn nữa, phản ánh đời sống của những người lao động bình dân, văn học dân gian luôn đề cập đến những vấn đề thân thiết với nhân dân và lí giải chúng theo quan điểm của người dân. Qua đó biểu đạt những kinh nghiệm đời sống, diễn tả những khát vọng và lí tưởng, quan niệm của nhân dân về con người, tự nhiên và xã hội.
Trước hết Nguyễn Trãi đã răn dạy người đời về việc học tập, trong nhiều bài thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng khá nhiều tục ngữ, thành ngữ:
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu tốt đều thì lắp khuôn
Lân cận nhà giàu , no bữa cốm
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn
Chơi cùng đứa dại nên bầy dại
Kết với người khôn học nết khôn
Ở đằng thấp thì nên đằng thấp
Đen gần mực , đỏ gần son.
(Bảo kính cảnh giới 21)
Đọc bài thơ này chúng ta dễ dàng nhận thấy Nguyễn Trãi đã vận dụng sáng tạo nhiều tục ngữ: - Ở bầu thì tròn , ở ống thì dài
- Ở gần nhà giàu đau răng ăn cốm
Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn
- Gần mực thì đen gần đèn thì sáng
Ca dao có câu:
“ Thật vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”
“ Ngọc lành nào có tơ vết
Vàng thật âu chi lửa thiêu”
Sống trong chế độ quân chủ chuyên chế, lòng tin của ông ở vua không còn, xung quanh là những kẻ gian thần đố kị, ghen ghét, luôn tìm cách hại ông. Nhưng ông không chịu khuất phục mà ông luôn giữ “tấm lòng thơm” của mình. Đó là tấm lòng trung với nước, hiếu với dân, luôn vì hai chữ “nhân nghĩa”.Chính điều đó tạo nên phú quý, là vàng bạc của muôn đời:Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”
Quốc âm thi tập có câu :
“ Ngọc lành nào có tơ vết
Vàng thật âu chi lửa thiêu”
Có con mới biết ơn cha nặngDừng lộc thì hay nghĩa chúa nhiều.
(Bảo kính cảnh giới- bài số 37)
Khỏi triều quan mới hay ơn chúa
Sinh được con thì cảm đức cha.
Sinh được con thì cảm đức cha.
(Trần tình- bài số 3)
Ngoài ra, Quốc âm thi tập còn vận dụng ngôn ngữ của thành ngữ, tục ngữ, ca dao của ngôn ngữ đời thường một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo. Đại thi hào Nga, Gorki dã từng nói: “Văn học dân gian là ngọn nguồn đầu tiên của nghệ thuật ngôn từ”. Qua đó chúng ta thấy được vị trí, vai trò to lớn của ngôn ngữ văn học dân gian trong việc hình thành tiếng nói của dân tộc. Nguyễn Trãi, nhà thơ, nhà văn đầu tiên của dân tộc sử dụng ngôn ngữ dân tộc, vận dụng chất liệu văn học dân gian để sáng tạo ra những tác phẩm văn chương kiệt xuất. Phải nói rằng, Nguyễn Trãi đã tạo nên: “Nhịp cầu nối làm cho thơ ca dân gian và thơ ca bác học xích lại gần nhau; làm cho thơ ca Việt Nam khắc phục được những ảnh hưởng ngoại lai và phát triển mạnh mẽ theo hướng ngày càng được dân tộc hoá và đại chúng hoá”.
Ở Quốc âm thi tập có sử dụng lớp từ vựng khẩu ngữ. Mặc dù sử dụng khẩu ngữ thế nhưng đọc Quốc âm thi tập ta không hề thấy khô khan. Bằng tài năng và cái tâm của một con người suốt đời vì dân, vì nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, Nguyễn Trãi đã vận dụng linh hoạt khẩu ngữ, tạo nên những sáng tạo độc đáo. Vì thế, lời thơ trở nên dung dị, uyển chuyển, trong sáng, gần gũi với nếp cảm, nếp nghĩ của người dân.
Trong bài Ngôn chí 10 ông có sử dụng từ khẩu ngữ mang tính chất tượng hình:
“Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén,
Ngày vắng xem hoa bợ cây.”
(
Ngày vắng xem hoa bợ cây.”
(
Như vậy, Nguyễn Trãi đã đưa khẩu ngữ hằng ngày vào thơ ca và tận dụng khả năng của khẩu ngữ ấy để tả cảnh, tả lòng, tả người, tả vật. Tất nhiên, những khẩu ngữ ấy là chất liệu của văn học dân gian. Đến lượt Nguyễn Trãi bằng vốn am hiểu đời sống của nhân dân, bằng cái tài vận dụng ngôn ngữ, ông đã gọt giũa, cách điệu hoá ngôn ngữ dân gian để biểu đạt một cách rất nhuần nhị.
Bên cạnh việc sử dụng lớp từ vựng khẩu ngữ trên, trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi còn sử dụng một số lượng lớn thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Trong bài Bảo kính cảnh giới 46 các thành ngữ “hai thớ ba dòng”, “một cơm hai việc” được Nguyễn Trãi sử dụng nguyên dạng, dồn dập nhưng không gây cảm giác nặng nề, ôm đồm, chồng chất mà ngược lại lại rất tự nhiên, giàu hình ảnh và không kém phần cụ thể sinh động:
“Một cơm hai việc nhiều người muốn,
Hai thớ ba dòng hoạ kẻ tham.”
Hai thớ ba dòng hoạ kẻ tham.”
Ngoài việc rút ý từ những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao ngắn gọn sẵn có, Nguyễn Trãi còn vận dụng những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao rất dài. Tục ngữ có câu:
“Khôn cho người ta dạy, dại cho người ta thương,
Dở dở ương ương chỉ tổn cho người ta ghét.”
được Nguyễn Trãi rút gọn, cắt ra làm thành hai câu phá đề trong bài Bảo kính cảnh giới 30:
“Chẳng khôn chẳng dại, luống ương ương,
Chẳng dại người hoà lại chẳng thương…”
Chẳng dại người hoà lại chẳng thương…”
Văn học dân gian là kho tàng vô giá phản ánh cuộc sống sinh hoạt củanhân dân. Ở đó ta thấy, ở họ là nghị lực sống phi thường, họ vẫn cần cù lao động, làm ra những hạt lúa, củ khoai… Cho nên khó khăn là vậy nhưng họ luôn có ý thức về những sản phẩm do chính bàn tay mình làm ra:
“Đi đâu mà chẳng biết ta,”
“Rau thơm, rau húng, rau mùi,
Thìa là, cải cúc,đủ mùi hành hoa.
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà,
Bí đao, đậu ván vốn nhà trồng nên”.
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà,
Bí đao, đậu ván vốn nhà trồng nên”.
“Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
(Bảo kính cảnh giới
Bữa ăn dầu có dưa muối
Áo mặc chi gấm nà”
Vui đất ải, lảnh mùng tơi
Liêm, cần tiết tua hàng nắm.
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
(Bảo kính cảnh giới
Bữa ăn dầu có dưa muối
Áo mặc chi gấm nà”
Vui đất ải, lảnh mùng tơi
Liêm, cần tiết tua hàng nắm.
Bên cạnh đó, đọc Quốc âm thi tập, chúng ta thấy Nguyễn Trãi đã phối hợp nhuần nhuyễn cách bắt vần trong tục ngữ. Tục ngữ có cách cách bắt vần chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ đầu nhịp sau. Đây được gọi là cách bắt vần theo kiểu vần liền (vần lưng sát):
Chẳng hạn:
- Bút sa, gà chết.
- Của một đồng, công một nén.
- Ếch tháng ba, gà tháng bảy.
Thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi, có rất nhiều bài thơ có những câu kết hợp kiểu bắt vần trên:
- Vua Ngưu, Thuấn, dân Ngưu Thuấn
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền
(Tự Thán 4)
- Làm quan đã dại, tài chưa đủ
Về ở thanh nhàn, hạn đã hồng.
Về ở thanh nhàn, hạn đã hồng.
(Thuật hứng 16)
- rượu đối cầm, đâm thơ một thủ
( Tự Thán 6)
Nếu so sánh vần trong câu thơ thất ngôn hay lục ngôn của Nguyễn Trãi với thơ lục bát và song thất lục bát, chúng ta thấy ở Quốc âm thi tập, tác giả đã sử dụng rất nhiều vần lưng ở những vị trí khác nhau. Phổ biến nhất là vần ở chữ thứ năm: vần ở cuối câu thơ trên hiệp với vần ở chữ thứ tư hoặc thứ năm trong câu thơ dưới:
- Lận cận nhà giàu no bữa cốm,
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn,
Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn,
(Bảo kính cảnh giới 21)
Khôn biết lòng nguời vắn dài”
(Ngôn chí 5)
- Ai hay đều có hai con mắt,
Xanh ngọc dầu chưng mặt chúng người.
Xanh ngọc dầu chưng mặt chúng người.
(Tự thuật 19)
Tục ngữ: + nhịp 3/4 đơn:
- Xem trong bếp / biết nết đàn bà.
- Lửa thử vàng / gian nan thử sức.
- Có mẹ già / bằng ba sào ruộng.
- Lửa thử vàng / gian nan thử sức.
- Có mẹ già / bằng ba sào ruộng.
Muốn ăn trái, dưỡng nên cây
Ai học thì hay, Mực lệ chầy”
(Bảo kính cảnh giới 10)
- Miệng thế nhọn / hơn chông mác nhọn,
Lòng người quanh / nửa nước non quanh.
Lòng người quanh / nửa nước non quanh.
(Bảo kính cảnh giới 9)
- Trà thuở tiên / thời mình kín nước,
Cầm khi đàn / khiến thiếp thiêu hương.
Cầm khi đàn / khiến thiếp thiêu hương.
(Tự thán 1)
+ nhịp 3/4 đôi:
Tục ngữ:
- Gái thương chồng / đang đông buổi chợ.
Trai thương vợ / nắng quái chiều hôm.
Trai thương vợ / nắng quái chiều hôm.
“Trúc Tưởng Hủ, nên thêm tiết cứng
Mai Lâm Bô, đâm được câu thần”
(Tự thán 11)
Ca dao:
- Áo vá vai / vợ ai không biết
Áo vá quàng / chí quyết vợ anh.
Áo vá quàng / chí quyết vợ anh.
Nguyễn Trãi đã vận dụng cách ngắt nhịp 3/4 trong những câu thơ song thất lục bát vào trong thơ mình. Hiện tượng hai câu bảy chữ đi liền nhau theo kiểu ngắt nhịp như trên khá phổ biến.
- Đám cúc thông / quen vầy bậu bạn
(T ự thán 5)
- Thơ đái tục / hiếm câu đái tục
Chủ vô tâm / ý khách vô tâm.
Chủ vô tâm / ý khách vô tâm.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: