Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 5-10-1920 ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Tác phẩm chính: Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa (1977), Một tiếng đờn (1992). Hiện ông đang sống ở Hà Nội.
Tố Hữu tham gia cách mạng rất sớm, trong phong trào Mặt trận dân chủ (1936-1939), khi còn là học sinh trường Quốc học Huế. Cũng thời kỳ này ông bắt đầu làm thơ. Con đường thơ ca của ông gần như đồng thời với con đường hoạt động cách mạng. Mỗi tập thơ của ông phản ánh một thời kỳ cách mạng Việt Nam. Ông được coi là giọng thơ trữ tình chính trị lớn nhất trong văn học hiện đại Việt Nam. Cái đẹp trong quan niệm của ông phải là cái hữu ích, phù hợp với lý tưởng và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp của Đảng. Thơ ca của ông là tiếng hát ngợi ca cách mạng, ngợi ca đất nước, ngợi ca Bác Hồ không ngưng nghỉ. Trong mấy mươi năm, thơ ông có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ các tầng lớp nhân dân tranh đấu giành độc lập cho dân tộc và xây dựng đất nước.
Bài thơ "Việt Bắc" được rút ra từ tập "Việt Bắc tập thơ thứ 2 của Tố Hữu sau "Từ ấy". "Việt Bắc" được sáng tác trong khoảng thời gian từ 1946 đến 1954, phản ánh hiện thực cuộc sống kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Ở tập thơ này, cái tôi trữ tình của tác giả đã hòa nhập, cất tiếng cùng cái tôi của nhân dân, của quần chúng cách mạng đang từng ngày góp công sức, tính mạng cho cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. "Việt Bắc vừa giản dị, thấm nhuần nghệ thuật của thơ ca dân gian, đồng thời cũng thấm đẫm chất anh hùng ca của thời đại. Sau chiến thắng oanh liệt Điện Biên Phủ, hòa bình được lập lại trên miền Bắc. Một trang sử mới xán lạn mở ra cho nhân dân. Cuộc sống trở lại tươi trẻ, ngọt ngào. Chính phủ chuyển từ căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Việt Bắc với những cánh rừng đại ngàn, với núi rừng hùng vĩ đã là cái nôi, là điểm tựa cho cách mạng. Khi về Hà Nội, nhà thơ Tố Hữu đã lưu luyến viết bài thơ Việt Bắc, một bài thơ dài theo thể lục bát. Việt Bắc được đánh giá là một trong những bài thơ lớn và tiêu biểu cho sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Hơn nữa đây cũng là bài thơ tiêu biểu cho cả một nền văn học cách mạng. Nhiều nhà phê bình đã phân tích kỹ càng bài thơ này, cũng như rất nhiều thế hệ học sinh đã dược học bài thơ này. Không kể đến tư tưởng nó trình bày, mà chỉ nhắc đến vẻ ngọt ngào quyến rũ của thể thơ lục bát được viết nhuần nhuyễn cũng đủ làm xao xuyến tâm hồn người đọc rồi.
Hỏi:
Thưa nhà thơ, bài thơ ngay từ đầu đã đề cập đến vẻ quyến luyến chia ly làm cảm động lòng người, hơn nữa những cảnh vật của rừng núi Việt Bắc hiện lên thật lung linh. Hẳn nhà thơ phải say đắm với cảnh vật con người ở đây lắm.
Đáp:
Nên chú ý cho rằng, bài thơ này là bài thơ của một người sống trong một thực tiễn cách mạng không phải đi ngắm cảnh như khách du lịch. Bản chất của tôi là một người cách mạng nên mọi tình cảm, mọi tâm tình trong thơ của tôi là tình cảm tâm tình của một người cách mạng. Không phải là tâm tình cá nhân, không phải "cái tôi cá nhân" mà các nhà thơ hằng tôn thờ. Cái tôi cá nhân của tôi là cái tôi hòa vào cái tôi chung của cách mạng, của nhân dân. Đất nước trở thành máu thịt của tôi và tôi một phần nào đó cũng trở thành máu thịt của đất nước. Tôi rất thích hai câu thơ Chế Lan Viên:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Tôi hoạt động ở Việt Bắc mười mấy năm, sống cùng đồng bào các dân tộc ít người, chia sẻ nhau từng cơn sốt rừng, từng sự thiếu thốn, từng sự hiểm nguy luôn rình rập. Khi về Hà Nội, tôi có cảm giác như mình để lại một phần đời ở Việt Bắc. Đó là lý do giản dị khiến tôi viết bài Việt Bắc.
Hỏi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình và mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
"Mình" và "ta" là cách xưng hô thân mật của người Việt không chỉ trong tình cảm trai gái mà nó còn được dùng trong tình huynh đệ kết nghĩa keo sơn. Hơn nữa trong ca dao, tục ngữ, nghĩa là trong tâm thức văn hóa của người Việt, cách gọi này được dùng rất nhiều. Khổ thơ mở đầu đầy những từ êm dịu, gợi đến tình cảm nồng thắm dịu dàng. Nó vẽ lên cảnh chia lìa của một mối tình cảm ruột thịt, gắn bó bền vững. Nó như tiếng thì thầm của con suối khi phải từ biệt cánh rừng, những ngọn núi để vào sông lớn. Mười lăm năm, tính từ thời kỳ kháng Nhật với phong trào Việt Minh xây dựng căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh miền núi Việt Bắc đến năm 1945. Nhưng ở trong câu thơ đầy chất trữ tình này, thời gian không tính chính xác như thế, nó có ý nghĩa biểu thị cho một mối tình gắn bó khăng khít dài lâu...
Đáp:
"Mình" và "ta" thông thường, cũng như trong ca dao, tục ngữ, được dùng chỉ hai ngôi. Mà hai ngôi ấy gắn bó với nhau bằng mối tình cảm tha thiết. Nhưng tôi có đọc một số bài phân tích của các nhà phê bình cũng như các thầy cô giáo theo họ khổ thơ này y như một chuyến chia ly giữa một chàng trai dưới xuôi và một cô gái dân tộc, hay khá hơn, thì cũng là sự chia ly của "cái tôi thi sĩ" với cảnh vật, núi rừng, con người Việt Bắc. Đó là cách phân tích mà họ dựa theo cách của ca dao, tục ngữ hay của đời sống bình thường. Nhưng bài thơ này có một cuộc sống độc lập riêng. "Mình" và "ta", "ta" và "mình" ở đây không phải dùng cho ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai, không phải một từ mà chỉ khách thể, một từ chỉ chủ thể mà cả hai đều chỉ chủ thể. Tôi nhắc lại "mình" và "ta" ở đây đều chỉ chủ thể. Tức là "mình" ấy "ta" ấy là một phần của đời sống thi sĩ đã trải qua bao nhiêu năm ở Việt Bắc. Cái phần đời này "trò chuyện" quyến luyến với phần đời kia. Cho nên cuộc chia tay không phải diễn ra bình thường mà nó diễn ra trong máu thịt, trong tâm hồn nhà thơ. Sự chia ly bản thân mình là một sự chia ly khó khăn nhất và tha thiết nhất, đắm đuối nhất. Phải hiểu được cách dùng "mình" và "ta" này mới có thể hiểu được bài thơ.
Hỏi:
Vâng "mình và "ta" ấy đã hòa vào cảnh vật, hòa vào tình cảnh.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Hai câu thơ lục bát tuyệt đẹp này đã làm rung động bao thế hệ độc giả, học sinh, sinh viên. Nó hay không phải vì cấu trúc độc đáo hay có những tư tưởng to tát, nó hay bởi cái cảm giác "tha thiết", "bâng khuâng", "bồn chồn" mà lòng ai cũng có. Chỉ hai câu thơ lục bát mà thể hiện cả ba trạng thái tình cảm sâu thẳm, "bâng khuâng" như một nỗi hụt hẫng, một niềm vui vừa rời bỏ, rồi "bồn chồn" không yên được tấc lòng. Hai câu thơ này đã vẽ lên cảnh chia li thật da diết như thể phải bứt đi một khối tình trong tấc lòng đau đáu. Nhưng chữ "áo chàm" ở câu dưới có phải là một hình ảnh hoán dụ, dùng để nói đến đồng bào Việt Bắc?
Hỏi:
Hiểu như thế cũng được, nhưng hiểu thế đơn sơ và lệ thuộc quá, cách đó không phải là cách để hiểu thơ ca. Tuy đồng bào ta mặc áo chàm nhiều và có thể mặc để đưa tiễn cán bộ cách mạng, nhưng "áo chàm" ở đây mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Màu chàm nâu trong tâm thức của người Việt là một màu đơn sơ, chân thực, không kiểu cách lòe loẹt. Nó biểu hiện sự chân thành đến giản dị. Hơn nữa, ở đây cả khách thể lẫn chủ thể đều hòa chung là một nên "áo chàm" là biểu tượng cho tấc lòng chung của mọi ngươi.
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Cái tình "tha thiết", "bâng khuâng", "bồn chồn" thì có lời nào tả cho hết được. Tình cảm càng thắm đượm, càng nồng nàn thì ngôn từ càng bất lực. Những người anh em ruột thịt khi gặp nhau hay xa nhau lâu ngày còn có hành động nào hơn lời nói là nắm tay nhau, là ôm chầm lấy nhau. Cái ngôn ngữ của bàn tay nóng ấm gắn liền với trái tim run rẩy xúc động hơn mọi lời nói khác, nhất là trong cảnh chia ly với "chính mình" này. Cho nên "biết nói gì" cho thỏa chứ không phải là "không biết nói gì".
Hỏi:
Đúng là có những tình huống ngôn từ không thể nào thể hiện được hết tình cảm con người. Nhưng cảm giác về nỗi chia ly đã bật lên như một nỗi day dứt:
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Hỏi là "có nhớ" nhưng thực đã biết rằng người đi đã nặng nhớ thương với những gì gửi lại. Quên làm sao ngày tháng gian nan, những ngày "mưa nguồn suối lũ", những ngày "miếng cơm chấm muối" với "mối thù nặng vai", những ngày chia ngọt sẻ bụi, siết bao tình nghĩa. Một phần "mình" đã gắn bó cùng với núi rừng. Giờ đây phút rời xa, tưởng cả núi rừng thiên nhiên cũng ngẩn ngơ thương nhớ.
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già...
Đáp:
Ở đây cần chú ý đến hai câu:
Mình về rừng núi nhớ ai
Và:
Mình về còn nhớ núi non
Cái nỗi nhớ như tiếng gọi ở trong thung lũng. Một lời vang lên là có tiếng vọng lại tha thiết hơn, ấm áp hơn. Thực ra người đọc sẽ không cảm thấy cuộc phân ly nữa mà chỉ thấy một nỗi nhớ lớn lên, bền bỉ và thắt chặt mọi người trong một ký ức chung đẹp đẽ. Những mái nhà nghèo nàn, những ngọn lau xám "hắt hiu" trước gió, những bữa ăn đạm bạc... nhưng tấm lòng của người dân trong đó đối với cán bộ, đối với cách mạng thật là chung thủy, thật là "đậm đà lòng son". "Hắt hiu lau xám" được đối với "đậm đà lòng son" trong một câu thơ càng làm nổi rõ ý nghĩa của nhau. Hoàn cảnh càng khó khăn lòng dân với cách mạng càng keo sơn. Bây giờ thì thật khó tưởng tượng nổi lòng dân ta khi ấy. Gia cảnh khó khăn, lương thực thiếu thốn, giặc Tây uy hiếp liên tục nhưng ai ai cũng một lòng một dạ theo Việt Minh, theo kháng chiến. Tấm lòng ấy quả bền vững như núi rừng Việt Bắc.
Hỏi:
Mình về mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa
Trong câu sáu, từ "mình" xuất hiện ba lần trong một ý nghĩa thật đặc biệt. Ở đây rõ ràng cả ba chữ "mình" đều chỉ chủ thể. Làm sao có thể "mình" không thể nhớ "mình" được, cho nên câu thơ như một lời thủ thỉ nồng nàn chứ không phải là một câu hỏi. Hơn nữa, hai địa danh Tân Trào, Hồng Thái là nơi Quốc dân Đại hội (8-1945) thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hai địa danh ấy có giá trị lịch sử to lớn và tức thì được đồng nghĩa với một chữ "mình". Các địa danh đó cũng là chủ thế. Mà sự chia lìa của chính chủ thể là không thể có được. Vậy đó chỉ là sự xa cách về mặt không gian, thời gian, về địa lý chứ hoàn toàn không có một sự xa cách nào trong tâm hồn.
Đáp:
Câu thơ đó sẽ một lần nữa được nhắc lại ở đoạn sau, khẳng định sự không thể chia cắt của chủ thể. "Ta" với "mình", "mình" với "ta", cái sự phân đôi từ này chỉ là sự phân đôi của nỗi nhớ, một về Hà Nội một ở Việt Bắc. Còn sự chung thủy sắt son như nhất thì không gì có thể lay chuyển:
Mình đi mình lại nhớ mình
và câu trên:
Mình đi mình có nhớ mình
Câu thơ được lặp lại gần hết chỉ thay từ "có" bằng từ "lại" như một điểm nhấn có ý nghĩa. Cái ý nghĩa đậm đà đó là:
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
“Nước nguồn chảy ra" trong dân gian Việt Nam được ví như công lao, tình yêu vô bờ của người mẹ. Tình yêu ấy không bao giờ cạn cho dù vật đổi sao dời. Ở đây tình cảm cũng chan chứa, cũng dồi dào như tình yêu của người mẹ. "Bao nhiêu nước" thì bấy nhiêu" nghĩa tình. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Nghĩa này như nghĩa mẹ, tình này như tình cha. Đây không phải lời khẳng định hay chứng tỏ tình cảm, bởi vì lòng người này đã sống trong lòng người kia rồi thì cần gì phải phô bày nữa. Đó là một lời buột thốt lên từ đáy lòng.
Hỏi:
Cái tình nghĩa "nước nguồn" đã rõ ràng. Bây giờ bài thơ đi vào những chi tiết thực hơn, sống động hơn. Những năm tháng gian nan và vui tươi dần được hiện lên:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nỗi nhớ về người yêu là nỗi nhớ da diết nhất, nồng nàn nhất trong mỗi con người. Và cái cường độ của "nỗi nhớ người yêu" được mang ra so sánh với nỗi nhớ trăng, núi, nắng chiều, nương rẫy, bản làng, bếp lửa... Tất cả cuộc sống, cảnh vật thật giản dị từng ngày, từng giờ đã thấm đẫm vào tâm hồn nhà thơ và làm nên ký ức và một miền quê Việt Bắc. Đúng như câu thơ Chê Lan Viên:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Trong cuộc sống, có những lúc ta thấy mọi thứ, mọi vật ở quanh ta, quen thuộc với ta quá ư bình thường, ta không có lúc nào tự hỏi: vậy nó có ý nghĩa gì? Chỉ khi nào tất cả những cái đó trở thành kỷ niệm thì trong ký ức nó trở nên lung linh, lấp lánh và luôn dễ gây xúc động. Một vùng đất như Việt Bắc cũng thế, khi chia lìa rồi, chợt thấy cảnh vật con người ở đó sao thân thiết, quyến luyến đến thế.
Đáp:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Có sống cùng đồng bào dân tộc trong những ngày kháng chiến gian lao mới hiểu hết hai câu thơ này. Có những ngày lũ làng đổ về cuồn cuộn, những đêm mưa rừng xối cả, rồi gạo trôi, rồi sắn bị cuốn, rồi địch phục kích sau lưng. Ở trong hoàn cảnh đó nếu không có một tình đồng bào máu thịt thì không thể giúp đỡ cho nhau vượt qua được. Những ngày bị cơn sốt rừng hành hạ, được cưu mang về bản rồi được các mế, các chị hái lá rừng đun nước kề tận miệng cho uống mới thấm thía hết giá trị to lớn của tình người và tình quân dân gắn bó keo sơn. Khi anh sống ở đó rồi anh ra đi anh có cảm giác nhớ "rừng nứa bờ tre", nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà mình vô tình bắt gặp. Nỗi nhớ đó bắt nguồn từ tình con người với nhau, và tình người cũng lan sang cảnh vật. Thực chất chữ "đây", "đó" đều cùng chỉ một địa điểm. Bởi vì nếu khác thì phải nói là "ta đây", "mình đó chứ không dùng "mình đây", "ta đó".
Hỏi:
Cảnh vật không hề đổi dù người có tạm xa. Nhớ cảnh, nhìn cảnh nhớ đến người. Quả như người xưa có nói "trông cảnh mà nghĩ đến người. Nếp sống kháng chiến gian khổ nhưng thân mật hiện ra thật mộc mạc và chân chất.
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẽ nửa chăn sui đắp cùng
Những hình ảnh "củ sắn", "bát cơm... quá ư mộc mạc, nhưng lại đượm một tình người lớn lao. Chính vì thế sự mộc mạc của các hình ảnh thơ đã tôn thêm tính chân thực của câu thơ. Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt, không phải là sẽ chia cái gì lớn lao, tính mạng hay xương máu, sự sống hay cái chết, chỉ là sự sẽ chia những nhu cầu tối thiểu của đời sống, nhưng vô cùng cảm động. Cái giản dị, cái ngỡ như bình thường ấy lại làm nên một tình cảm yêu thương bất tận, làm nên sức sống của tình đồng bào, đồng chí...
Đáp:
Hình ảnh ấy chưa phải là mộc mạc nhất đâu. Bài thơ còn được tiếp nối bởi một mạch thơ giản dị như thể chính đời sống chảy nguyên vẹn vào thơ. Một người mẹ "nắng cháy lưng" và địu con ở đằng sau, trèo núi, vượt đèo để chỉ "bẻ từng bắp ngô". Cuộc sống hiện lên như vốn có. Nếu anh thờ ơ, bàng quan thì anh chả thấy gì là thơ, là đời ở đó cả. Nhưng anh có một chút lưu luyến, một chút gắn bó xem, lập tức anh sẽ tìm thấy ở đó một ngọn lửa lung linh bền bỉ của sự sống. Từ những hình ảnh khắc họa chân thực cuộc sống ngày thường của bản nhỏ, mạch thơ mới bắt sang những hoạt động ngày xưa của cái tôi tác giả.
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Trong tiếng ca vang núi đèo ấy có tiếng mõ trâu, lạc ngựa tìm về bản tận rừng sâu và có tiếng đều đều của suối xa, của nhịp chày đêm không ngủ. Cái tiếng ca vang trong gian nan đó toát lên từ chính cuộc sống giản dị, lặng lẽ nơi bản nhỏ. Bản thân cuộc sống đã là một bài ca bất tận và không thể có gian nan, khổ ải nào ngăn cản được sự trong trẻo, tươi vui của nó.
Hỏi:
Khi phân tích bài thơ Việt Bắc, các sách hướng dẫn văn học đặc biệt chú trọng đến đoạn thơ.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trung rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Với những hình ảnh độc đáo "hoa chuối đỏ tươi", "nắng ánh", "dao gài thắt lưng" hay "mơ nở trắng rừng", "ve kêu rừng phách đổ vàng... Có người bình luận về câu thơ "ve kêu rừng phách đổ vàng" như sau: khi ve kêu cả khu rừng như xốn xang, tràn ngập âm thanh, nhịp phách của rừng khi trầm khi bổng...
Sở dĩ người ta chú ý đến đoạn thơ này cũng dễ hiểu, một đoạn thơ tràn ngập màu sắc, âm thanh, hình ảnh. Tất cả đều diễn tả một cuộc sống tươi đẹp, tưng bừng, chan hòa và ân tình. Ý kiến của ông thế nào?
Đáp:
Phách là một loại cây ở rừng Việt Bắc. Nó rất phổ biến và khi mùa thu đến thì lá ngả vàng làm cả khu rừng vàng rực lên. Câu thơ của tôi chỉ miêu tả một hình ảnh giản dị như thế chứ không phải có ý tả nhạc rừng hay tiếng rừng gì cả. Còn ngọn hoa chuối, nhìn ở đồng bằng thì không có cảm giác gì nhưng khi nhìn nó ở miền núi, nhất là giữa đám lau lách, hay đám cỏ hoa thì nó có một giá trị đặc biệt. Bởi vì nó cho cảm giác có một bông hoa có thực chứ không mong manh và chóng tàn như các loại hoa cỏ khác. Ở đây không phải là cảnh vật nở bừng hoa, mà tác giả muốn tả một cảnh đẹp để làm nổi bật con người trong đó. Con người trong đó là con người lao động bình dị: những người đi phát rẫy làm nương có "ánh dao cài thắt lưng", những ngươi đan lát "chuốt từng sợi giang", cô em gái "hái măng" và tiếng hát ân tình thủy chung. Cứ mỗi một câu sáu tả cảnh tả hoa thì lại xen vào một câu tám tả người, cho người đọc cảm giác nếu không có những con người ấy, không có cuộc sống yên bình lao động ấy thì không thể cảm thấy cảnh vật kia là đẹp đẽ dường vậy. Vẻ đẹp của con người và vẻ đẹp của cảnh vật hòa quyện với nhau, tôn lên lẫn nhau. Đó là sự gắn bó không rời của con người với mảnh đất quê hương. Trong nỗi nhớ của thi sĩ, cuộc sống Việt Bắc, con người Việt Bắc hiện lên như thế, giản dị, tưng bừng đâu cũng có cảnh đẹp, đâu cũng có con người ân tình.
Hỏi:
Nhưng không chi có sự sẽ chia, ân tình giữa người với người rừng núi Việt Bắc cũng được miêu tả trong một tình nghĩa cảm động. Trong cuộc chiến đấu lâu dài chống lại giặc Pháp, con người và thiên nhiên vẫn sát cánh bên nhau. Mỗi gốc cây, ngọn núi, con suối... dường như đều góp mặt tạo nên một trận địa rộng lớn. Hiểu theo một nghĩa nào đó, thiên nhiên, cảnh vật Việt Bắc đã được đồng nghĩa với tấm lòng nhân dân:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Đáp:
Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là cuộc kháng chiến trường kỳ. Nếu chỉ dựa vào sức người thì khó có thể chiến thắng nổi. Nên nhân dân đã tiến hành một cách đánh rất hay: chiến tranh du kích, dựa vào địa hình, đánh tiêu hao dần lực lượng của địch. Việt Bắc ngày ấy một mặt là căn cứ địa vững vàng của ta, rừng che giấu cán bộ, bộ đội ta khiến địch không phát hiện được, mặt khác rừng núi cũng tạo thành một thiên la địa võng mà hễ quân địch đặt chân vào là lạc lối. "Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù" là vậy. Và vì đâu mà ta có lợi thế ấy? Vì rừng núi là của ta, ta có rừng núi là có sức mạnh của cả quê hương. Quê hương bao giờ cũng ân nghĩa, chở che những người con đang chiến đấu bảo vệ đất đai, sông núi. Ý nghĩa của câu thơ là ở chỗ đó.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Hai câu thơ tiếp cũng nói lên sức mạnh của quê hương. Ở đây có sự đối lập giữa "mênh mông bốn mặt" và "một lòng" nhằm nhấn mạnh vào sự "đồng lòng" trong kháng chiến. Cái lũy sắt dày hay "bốn mặt sương mù" không nên chỉ hiểu theo nghĩa đen, nó không chỉ là hình tượng của thiên nhiên, nó còn được hiểu như là trận địa của lòng dân, của cả đất trời sông núi Việt Bắc nói chung. Cùng với con người, thiên nhiên Việt Bắc đã dự phần vào cuộc kháng chiến, góp công vào những chiến thắng sau này. Ý tưởng rừng núi cũng như con người, rừng núi là biểu hiện vững bền của lòng dân là ý tưởng của đoạn thơ này.
Hỏi:
Bài thơ như một ghi chép về cuộc kháng chiến chống Pháp, trong đó ghi lại sinh động từ những ngày đầu gian khổ cho đến giai đoạn tiến công và giành chiến thắng. Khi phản ánh lại khí thế tiến công mạnh mẽ của toàn quân toàn dân ta, trở nên dồn dập, hình ảnh thì sống động, hào hứng.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Những địa danh chiến thắng được nhắc đến một cách hân hoan: Phủ Thông, Đèo Giàng, Sông Lô, phố Ràng, Cao Lạng v.v... Tất cả đều toát lên chất anh hùng ca mạnh mẽ, tự hào...
Đáp:
Khó có thể diễn tả hết khí thế hào hùng của quân và dân ta thuở ấy. Hàng ngàn hàng vạn người ra trận, từng đoàn bộ đội dân công nối nhau như sóng cuộn, đi rung chuyển cả núi rừng, đêm đốt đuốc sáng bừng. Cho nên thể hiện hình ảnh đoàn quân "điệp điệp trùng trùng", đi "rầm rập như là đất rung" là không có gì cường điệu. Một đoạn thơ dùng hàng loạt điệp từ, từ láy, gợi nên những hình ảnh, âm thanh ấn tượng, khiến cho người đọc cảm thấy sự hối hả, luân chuyển không ngừng của những đoàn quân ra mặt trận. Nhịp thơ 2/2.
Những đường / Việt Bắc / của ta
Đêm đêm / rầm rập / như là / đất rung
Quân đi / điệp điệp / trùng trùng
Như nhịp bước hành quân, mạnh mẽ, oai hùng làm sao! Trong toàn bộ đoạn thơ, mỗi hình ảnh mỗi từ ngữ đều nhằm làm nổi bật tính chất anh hùng của quân đội ta. Anh hùng, kiêu hãnh, đạp bằng gian nguy để tiến lên phía trước. Cái khí phách ấy được dồn nén và bật ra trong một câu thơ rất hay:
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Cái phí phách này chỉ tìm thấy trong một vài anh hùng thuở xưa nhưng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những anh hùng như thế có rất nhiều, từng đoàn quân anh hùng, cả một dân tộc anh hùng. Thời đại của cuộc chiến tranh chính nghĩa tạo nên cái anh hùng trong đời sống và trong nghệ thuật. Trong Việt Bắc, khác với giai điệu tình nghĩa mượt mà ban đầu, giờ đây bài thơ đã chuyển mạch cảm hứng, nó trở nên mạnh mẽ, dứt khoát để có thể chuyển tải được khí phách anh hùng và tinh thần ngợi ca đối với khí thế ra trận của cả dân tộc.
Hỏi:
Với khí thế như vậy thì chiến thắng phải là tất yếu. Đoạn tiếp của bài thơ là khúc khải hoàn chiến thắng.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Một đoạn thơ chỉ toàn là các từ chỉ địa danh. Đó cũng là một sự độc đáo. Những địa danh gắn với những chiến công oai hùng làm nức lòng mọi người. Từ khắp các miền xa xôi của Tổ quốc, nhưng đều có chung một niềm vui. Từ "vui" xuất hiện trong tất cả các dòng thơ có ý nghĩa gắn kết các địa danh lại trong một tinh thần chung, đó là chiến thắng chung, là niềm vui chung của cả dân tộc.
Đáp:
Phải sống ở thời kỳ đó mới hiểu hết giá trị của một tin Chiến thắng. Từ 1953 đến 1954 ta đánh Pháp trên khắp các chiến trường. Những gian khổ, hi sinh của nhân dân được đền bù xứng đáng. Khắp mọi miền của Tổ quốc, tin chiến thắng bay về Việt Bắc, từ miền Nam, Tây Nguyên, Hòa Bình..., làm nức lòng đồng bào chiến sĩ. Khi ấy, chỉ cần nhắc đến một địa danh chiến thắng nào đấy thôi, người ta đã hân hoan nghĩ đến ngày nước ta sạch bóng quân thù, dân ta được tự do chung vui xây dựng cuộc đời mới. Nỗi đau đồng cảm, niềm vui thì dễ lây lan. Một tin chiến thắng đã là hết sức vui, chiến thắng dồn dập thì niềm vui hẳn lên đến cao độ. Cho nên sự xuất hiện từ "vui" trong tất cả các dòng thơ là nhằm để thể hiện một sự cộng hưởng của niềm vui - một niềm vui dào dạt, mạnh mẽ và lâu bền.
Hỏi:
Cảm hứng đến với nhà thơ là khi kháng chiến thắng lợi phải chia tay căn cứ địa Việt Bắc để về xuôi, vì vậy hình ảnh của Việt Bắc, tình cảm ân tình thuỷ chung của người đi với Việt Bắc vẫn là nội dung chủ đạo. Trong phần kết bài thơ, nhà thơ một lần nữa khắng định ý nghĩa của Việt Bắc - quê hương cách mạng - trong chặng đường gian khổ để giành lấy tự do độc lập của dân tộc...
Đáp:
Đúng vậy, Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là nơi người Việt Nam hướng tới, tin tưởng vào chiến thắng vào ngày mai. Từ đây trong những ngày đen tối trước tháng 8-1945 hay trong đằng đẵng 9 năm kháng Pháp, cụ Hồ và Trung ương Đảng đã vạch đường cho cách mạng, đã ban lệnh tổng khởi nghĩa, đã chỉ đạo các chiến dịch. Từ ý nghĩa đó mà tôi viết:
Ở đâu u ám quân thù
Trông về Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Việt Bắc là trái tim cách mạng của cả nước, Việt Bắc gắn liền với hình ảnh Bác Hồ kính yêu. Người như ngọn đèn soi cho tất cả các số phận đau đớn, số phận mỗi cá nhân và số phận của cả dân tộc, tìm ra con đường đi đến với tự do. Những năm Bác Hồ sống ở rừng Việt Bắc, từ khắp mọi nơi trong cả nước, nhân dân đã một lòng một dạ hướng về Người, đã vì chân lý Người vạch ra mà bền bỉ tranh đấu để giải phóng cho mình, cho quê hương đất nước. Người là linh hồn của Việt Bắc. Khổ thơ cuối có ý nghĩa tổng kết lại tình cảm của người ra đi đối với Việt Bắc: "Mười lăm năm ấy, ai quên" và nhấn mạnh giá trị của quê hương cách mạng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Bài thơ được viết theo thể lục bát, một thể thơ uyển chuyển có khả năng lột tả được những tình cảm dịu dàng thắm thiết. Nó hoàn toàn tương ứng với nội dung tình cảm cần diễn đạt của người ra đi. Bài thơ có hai nhân vật trữ tình: mình và ta, nhưng cả mình và ta đều là cách biểu hiện của chủ thể tác giả. Tác giả khi ấy, năm 1954, chia tay Việt Bắc như chia tay một phần đời sống của mình: một đời sống gian khổ nhưng vui tươi ân nghĩa, sâu sắc và da diết, tràn đầy ấn tượng và hạnh phúc. Chính vì thế không khỏi lưu luyến, bồi hồi nhớ lại tất cả. Cũng như nhiều người khác, Việt Bắc đã trở thành quê hương tinh thần của chính tôi, của tôi và mọi người. Cho nên nỗi niềm riêng của tôi trong Việt Bắc đã thành nỗi niềm, tình cảm chung của cán bộ, chiến sĩ, của nhân dân.
Xin cảm ơn nhà thơ!
( Sưu Tầm)