Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔN NGỮ HỌC
Tiếng Việt
Âm vị tiếng Việt
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="vosong" data-source="post: 21654" data-attributes="member: 92"><p><strong>Âm vị tiếng Việt (TT)</strong></p><p></p><p>Âm vị được định nghĩa tổng hợp lại như sau: </p><p></p><p>""Âm vị là một đơn vị nhỏ nhất và liên tục của tiếng nói, làm phân biệt các từ, từ đó tiết được thành lập"" </p><p></p><p>Trùng âm có phải là âm vị hay không? </p><p></p><p>Cái mấu chốt của vấn đề là ở chỗ các nhị và tam trùng âm là một âm vị hay tập hợp nhiều âm vi Trường phái cổ điển không công nhận trùng âm là âm vị . </p><p></p><p>Trường phái Tây phương coi mỗi trùng âm là một âm vi Quan niệm cổ điển không đúng vì các lý do sau đây : -Nếu chúng ta đã khẳng định các phụ âm kép đầu từ /th/, /ng/, /nh/, /kh/ là âm vị thì sẽ không nhất quán nếu chúng ta không công nhận các trùng âm là âm vi Phụ âm và nguyên âm đều có tác động như nhau trong sự thành lập âm vị . -Mỗi âm vị phải được phát âm một cách liên tục, nói khác đi âm vị không thể đập vỡ ra cho nhỏ hơn nữa mà không làm thay đổi nghĩa của tự Thí dụ âm Ía không thể phân tích thành hai âm Í và a vì như thế sẽ có nghĩa khác như câu </p><p></p><p>"Cô Thúy uể oải tới Chú Ía hát hò" </p><p></p><p>nếu tách rời các trùng âm thì sẽ có nghĩa hoàn toàn khác hẳn là </p><p></p><p>"Cô Thú-y ủ-ê o ai ? Tới Chú, í-a hát hò" </p><p></p><p>-Bây giờ ta hãy dùng lý luận để xem các trùng âm có vị trí như thế nào trong văn phạm. Lấy thí dụ âm "oai" trong từ ngoái là từ, âm tiết hay âm vị . </p><p></p><p>Rõ ràng oai không phải là từ vì ngoái mới là tự oai cũng không phải là âm tiết vì ngoái mới là âm tiết. Còn nếu ta phân tách thành ngó-ai thì từ sẽ có hai âm tiết ngó và ai. Điều này mâu thuẩn với sự thật không chối cải được là ngoái chỉ có một âm tiết. Đó là chưa kể phân tích như thế sẽ làm thay đổi nghĩa của từ, điều này không được làm. Không phải là từ, không phải là âm tiết, cũng không thể phân tích ra nhỏ hơn nên oai phải là âm vị, không còn con đường nào khác để chọn lựa . </p><p></p><p>-Tách rời các trùng âm là trái với quan điểm của các nhà ngôn ngữ học Tây phương khi nghiên cứu ngôn ngữ Á Châu. Các nguyên âm ghép sau đây đều được coi là vowel hay phoneme : ai, ao, ưa, ia, iu, uay, nguyên âm dài như uu trong tiếng Thái hay ai,ao,ay,oa trong tiếng Khmer hoặc ai,au trong tiếng Indonesia . </p><p></p><p>Tách rời các trùng âm sẽ làm thay đổi ý nghĩa của một câu nói, tương tự như cách chấm câu . Một Giáo thụ (Professor) ngôn ngữ học viết một số từ lên bảng </p><p></p><p>""Đàn bà không có đàn ông là con số không"" rồi ra lệnh cho sinh viên chấm câu cho đúng. </p><p></p><p>Con trai viết :""Đàn bà, không có đàn ông, là con số không"" </p><p></p><p>Con gái viết :""Đàn bà không có, đàn ông là con số không"" </p><p></p><p>Đa hệ viết : ""Đàn bà không, có đàn ông, là con số không"" </p><p></p><p>-Cứ cho là các học giả Tây không rành ngôn ngữ Á Châu nên xếp sai các trùng âm vào âm vị đi nữa, nhưng tại sao bốn nhị trùng âm tiếng Anh, tương đương với bốn âm tiếng Việt, đều được đặt trong bảng âm vị ? </p><p></p><p>Thật vậy theo bảng Amercan English Phoneme Representation thì tiếng Anh có 40 âm vị phân chia ra như sau : </p><p></p><p>24 phụ âm </p><p></p><p>15 nguyên âm gồm có 11 nguyên âm đơn (monothongs), 4 nguyên kép (dipthongs, đó là /aw/ trong bout, /ay/ trong bite, /yu/ trong butte hay tiu nguỷu, /oy/ trong boy) và </p><p></p><p>1 untressed âm /er/ như trong banana . </p><p></p><p>Nếu nhị trùng âm là âm vị thì đương nhiên các tam trùng âm trong tiếng Việt phải được coi là âm vị . </p><p></p><p>-Nhiều âm tuy ghi giống hệt nhau nhưng đọc khác nên số âm vị phải khác nhau. Thí dụ seatle, vì đọc là si- ê - thầu nên ea có hai âm vị e và a nhưng seat vì đọc là si:t nên ea chỉ có một âm vị . </p><p></p><p>Tùy theo ngôn ngữ và chữ cái, âm vị có thể được viết bằng một chữ cái nhưng cũng thường được viết bởi nhiều chữ cái như âm vị eau trong beauty tiếng Anh hay iêu trong biêu tiếng Việt. </p><p></p><p>Không phải khi viết ba nguyên âm kề nhau như are là có ba âm vi Âm are chỉ có một âm vị với ký hiệu áÿ Bought chỉ có bốn âm vị là b, ao, t và dấu nhấn, gh không tính vào âm vị, theo một bộ tự điển tiếng Anh. </p><p></p><p>Thanh sắc : Thanh sắc được đo lường bằng tần số (Hz). Cái gì làm cho má khác với má, ma, mã, mả, mạ ? 'ÿó là thanh sắc. Vì âm vị là một đơn vị âm thanh làm phân biệt các từ với nhau nên thanh sắc là âm vị chớ không phải là một thành phần của âm vị như viện ngôn ngữ học Bắc Kinh đã phân loại như trên. </p><p></p><p>Số thanh thay đổi từ 4 đến 8 như tiếng BK có 5 thanh, tiếng Q'ÿ tự xưng là có 8 thanh, điều này cũng nên xét lại vì nhiều thanh chính người Q'ÿ cũng không phân biệt được. Tương tự chỉ có 50% dân miền Bắc là phát âm đúng hỏi ngã theo một kết quả của một học giả khi phân tích âm thanh của một số người, 50% còn lại phát âm dấu hỏi gần như là dấu nặng, dấu nặng thành lơ lững, dấu ngã gần dấu sắc. </p><p></p><p>Muốn cho từ ngữ không lẫn lộn thì 5 thanh như tiếng Thái là mức tối đa (làm sao qua mặt được thanh sắc tiếng Thái, được coi như phát xuất ra thanh sắc tiếng Việt và Tàu?), nhiều hơn thì chữ tác đánh chữ tộ, chính ngay dân địa phương còn không phân biệt được thì nói gì đến những người thuộc miền khác, họ nghe không quen thì tưởng là bỏ dấu sai. Khi có nhiều sắc tộc cùng xữ dụng một ngôn ngữ thì ngôn ngữ sẽ từ từ trở nên giản dị, dễ hiểu, dễ phát âm như tiếng BK đã tự động đào thải nhiều âm phức tạp hay tiếng Sanscrit đã giản dị hóa để trở thành tiếng Ấn hiện tại . </p><p></p><p>Tiếng Mã Lai, Tây Tạng, Mon có âm điệu nằm giữa dấu nhấn và thanh nghĩa là khá quan trọng, không phải là không có cũng không sao như tiếng Anh. </p><p></p><p>Mẫu tự Latin. Tập hợp 26 âm vị cơ bản nhất gồm có 5 phụ âm a, e, i, o, u và 21 phụ âm, đủ để ghi tòan bộ âm vị tiếng Latin nhưng không đủ để ghi hết tất cả các âm vị của mọi ngôn ngữ . </p><p></p><p>Số âm vị không căn cứ vào số nguyên âm hay phụ âm. Tổng số âm vị của một ngôn ngữ có thể nhiều hơn hay ít hơn tổng số 26 chữ cái Latin. Một âm vị có thể dùng một hay nhiều chữ cái để tượng trưng. </p><p></p><p>Từ 26 chữ cái ta có thể ghi hằng trăm âm vi Từ số âm vị ta có thể ghi hằng chục ngàn âm tiết. Tiếng Hán có 41 âm vị và 1347 âm tiết. Vì chữ Hán ghi âm tiết nên tối thiểu cũng phải có hằng ấy chữ tượng hìmh. Nhưng số từ cần thiết dùng trong văn hóa kỹ thuật cần ít nhất hằng chục ngàn từ nên không thể tránh được mỗi từ có rất nhiều từ đồng âm. 'ÿể tránh từ nọ đọ với từ kia họ phải sáng chế nhiều chữ Hán khác nhau cho mỗi từ đồng âm, vì thế có chừng mười ngàn chữ Hán cho hơn một ngàn âm tiết. Muốn đọc được sách báo phải cần hơn hai ngàn chữ và mất khoảng bảy năm. </p><p></p><p>Chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự Latin để ghi âm vị và tổng số âm vị tiếng Việt là 81 nên học rất dễ trung bình chừng hai tháng. Làm một con tính ta thấy ngay nếu phải học 2000 chữ Hán thì thời gian là (2000: 81) x 2 = 49 tháng hay 4 năm. Còn nếu phải học 10000 chữ thì thời gian dài gắp năm lần tức 20 năm. </p><p></p><p>Bỏ ra 20 năm chỉ để học chữ Hán thì hơi phí của. Thời gian dài đăng đẳng này có thể dùng để lấy được mấy cái bằng Tiến sị Thời cổ văn minh Trung Hoa rất xán lạn nhưng dần dần đứng khựng lại trong khi Tây phương phát triển mạnh mẽ, có thể một phần là lối chữ tượng hình, tuy có điểm lợi là thống nhất được nước Trung Hoa nhưng đồng thời một phần nào đó đã ngăn cản sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. 'ÿể ghi tiếng nói người Nhật dùng chữ chữ Hán và chữ Nhật. Cả hai ghi âm tiết nhưng vì tiếng Nhật chỉ có 140 âm tiết nên chữ Nhật chỉ cần bằng ấy chữ viết. </p><p></p><p>Tiếng Việt phức tạp hơn nhiều vì có số âm tiết khổng lồ khỏang 18000, tạm gọi là đủ để diễn tả mọi sự việc thông thường mà không bị làm khó hiểu bởi từ đồng âm và do đó có thể dùng chữ cái Latin để viết rời từng từ một cách dễ dàng, rõ ràng và gọn ghẹTrái lại nếu ta dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt thì sẽ gặp muôn vàn khó khăn, như chữ Nôm chẳng Hạn khó học khó nhớ hơn cả chữ Hán vì phải nhớ tới 18000 chữ khác nhau . </p><p></p><p>Ngôn ngữ có thể có từ 2 tới 25 nguyên âm, và 5 tới 100 phụ âm (độ chừng, có ai biết chính xác là bao nhiêu không?). Tổng số âm vị trong mỗi ngôn ngữ thay đổi từ ít nhất là 11 trong tiếng Rotokas (Papa New Guinea), 12 trong tiếng Hawaiian tới nhiều nhất lên đến 141 của bộ lạc !Xu ở Phi châu. Xin kể thêm vài trường thái quá như có: 2 nguyên âm trong vài phương ngữ của tiếng Abkhaz 3 nguyên âm trong nhiều tiếng dân da đỏ Mỹ châu, Á Rập hay Úc đen </p><p></p><p>25 nguyên trong tiếng Punjabi </p><p></p><p>6 phụ âm trong tiếng Rotokas </p><p></p><p>Hơn 100 phụ âm trong tiếng Xu </p><p></p><p>Ta thấy có sự tương tự giữa Vật lý và ngôn ngự Phân tử, nguyên tử và hạch nhân tương ứng với từ, âm tiết và âm vi Từ gồm một hay nhiều âm tiết giống như phân tử cấu tạo bởi một hay nhiều nguyên tự Nguyên tử có thành phần là hạt nhân tương ứng âm tiết có thành phần là âm vị . </p><p></p><p>Tưởng cũng nên lập lại vài định nghĩa để dễ bề so sánh : </p><p></p><p>Phân tử (molecule) : mãnh nhỏ nhất (thường là một nhóm nguyên tử) của vật chất được làm cho nhỏ hơn bằng cách phân chia mà không làm thay đổi đặc tính hoá học. </p><p></p><p>Nguyên tố (element) : Chất không thể phân giải được thành chất đơn giản hơn bằng phương tiện hoá học. Nguyên tử (atome) : phần tử nhỏ nhất của nguyên tố hoá học hay là phần nhỏ nhất của vật chất không thể chia nhỏ hơn nữa bằng phương tiện hoá học. </p><p></p><p>Hạch nhân (nucleus) : Hạt nằm ở trung tâm nguyên tử gồm có proton và neutron. Âm vị là cái mầm, cái lỏi, cái cốt lỏi, cái cùi, cái ngòi, cái hạt nhân hay hạch nhân của tiếng Việt. </p><p></p><p>Và cũng giống như sinh vật, mọi sinh vật ngoài một số gen riêng biệt còn có một số gen chung với các giống khác. Ngôn ngữ cũng thế, kể cả tiếng Việt, ngoài một số từ riêng tư cho từng ngôn ngữ còn có một số từ chung cho toàn thể tiếng nói của nhân loại. Tiếng Việt chứa nhiều tiếng Anh từ thời tiền sử cũng là chuyện thường tình, không có mới là quái la Nếu DNA có thể được dùng để tìm nguồn gốc người Việt thì ngôn ngữ cũng rất hữu dụng trong công cuộc truy cứu gốc tích người Việt nói riêng và Bách Việt nói chung. </p><p></p><p>Allophone (âm vị giống) là biến thể của âm vi Allophone của miền này có thể là phoneme của miền khác. Ch và Tr là allophone của miền Bắc nhưng là phoneme của miền Trung và Nam. Tương tự n và ng cuối âm tiết là âm vị miền Bắc nhưng là allophone của miền Nam. Câu ""Chị Lan than thở trên thang"" nếu ở miền Bắc thì trở thành ""Chzị Lan zầu zĩ than thở chzên thang"" còn miền Nam sẽ là ""Chị Lang rầu rỉ (dấu hỏi) thang thở trên thang"" Morpheme (hình vị) là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa (a word or meaningful part of a word for instance 'thé, 'speak' or the 'en' of 'spoken') như là một cơ bản (base), tiền tố hoặc hậu tố . </p><p></p><p>Một từ có thể chứa hơn một hình vi "Unable" có thể chia thành hai hình vị- tiền tố "un" và "able", trong khi đó "mahogamy" không thể chia nhỏ được nữa. Tiếng Việt không có tiếp tố nên không có hình vị và mỗi từ đa số chỉ có một âm, ngoại trừ một số ít từ đa âm tiết như sa-vông, lông bông, cà nhổng, ba bả . </p><p></p><p>Vì ngôn ngữ học rất rắc rối và khó hiểu nên ít người chú ý tới và do đó số học giả ngôn ngữ học rất hiếm, đếm được trên đầu các ngón tay của một bàn tay. Nếu người nào để ý nghiên cứu thì lại hiểu vấn đề một cách lộn xộn, kể cả những nhà ngôn ngữ học. May ra thì mấy nhà toán học mới hiểu thấu mọi gút mắc của vấn đề nhưng mấy ông này còn lâu mới rớ tới vì đâu phải là nghề của chàng. Mà có muốn cũng không được. </p><p></p><p>Sau khi đã trang bị đầy đủ các định nghĩa thì bây giờ là lúc ta thẩm định lại số âm vị tiếng Việt. </p><p></p><p>Âm vị tiếng Việt </p><p></p><p>Nếu ta theo đúng định nghĩa Tây phương về âm vị và phân tích theo các nhà ngôn ngữ Tây phương về nguyên âm thì tiếng Việt có rất nhiều âm vi Xin liệt kê âm vị tiếng Việt phát âm miền Bắc như sau: </p><p></p><p>6 thanh điệu: không, sắc, huyền, hỏi, nặng, ngã 20 phụ âm (ký hiệu phát âm được ghi trong hai gạch //, nhưng để giản dị, không ghi ký hiệu nếu phát âm trùng với chữ cái). </p><p></p><p>B, /K/ (C vàK), /Chz/ (CH và Tr miền Bắc), /d/ ('ÿ), /G/ (G và Gh), H, Kh, L, M, N, Ng (Ngh), Nh, P (Phụ âm đầu từ P là âm cổ nay dần dần phục hồi trở lại như pông sô, pia nô, pin), /Kw/ (Qu như quít), /F/ (Ph), T, Th, V, X, /Z/ (D, R, Gi miền Bắc). </p><p></p><p>Miền Nam có thêm 7 phụ âm Ch, Tr, R, S, J (/ / như Jarai, jăm bông, ăn jơ), Y (Y, ghi âm quốc tế là /j/, là phụ âm đầu từ D nhẹ miền Nam và dùng cho các từ ngoại quốc như đồng Yen, ya ua, yo yo, yoga), W (Qu, oa, Hoa), nhưng không có âm Chz, Z, Kw, V. </p><p></p><p>Tổng số phụ âm của phát âm miền Nam là 20 - 4 + 7 = 23. Tổng số phụ âm cho mọi phương ngữ là 20 + 7 = 27 'ÿến đây ta mới thấy sự khó khăn và tài tình của các nhà tiền phong khi sáng tạo chữ Quốc ngự Họ phải suy nghĩ nhiều cách để cả ba miền cùng xữ dụng một thứ chữ nhưng có thể đọc theo phát âm của mình, tương tự như Hán tự dùng cho mọi sắc dân Trung Quốc. </p><p></p><p>Các ca sĩ trẻ nước ngoài phát âm Ch thành Chs tương tự như âm Ch tiếng Anh, nghe rất kỳ lạ và ngộ nghĩnh y như Mỹ nói tiếng Việt, lơ lớ giọng mũi . </p><p></p><p>Liệt kê các âm vị rất khó khăn nên mỗi người một ý kiến. Như Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn 'ÿình Hòa trong "Tiếng Việt không son phấn" cho tiếng Việt gồm mọi phương ngữ có 22 tử âm, thể theo một bài lấy từ Internet ""'ÿáng lưu ý là bảng liệt kê 22 âm vị tử âm (consonant phonemes) dùng trong mọi phương ngữ VN -- bằng ký hiệu như /b-/, /f-/, /z-/, vân vân -- có thể đứng đầu các âm tiết, cùng với những chữ cái trong mẫu tự Việt được dùng để biểu hiện những âm vị này. Thí dụ, âm vị /k-/ thường được biểu hiện bằng những chữ cái c-, k-, q- (con cá, cái kim, quả cam) (trang 20). Biểu đồ của 6 thanh điệu (trang 20) cho người đọc thấy rõ độ cao thấp cùng với đường uốn lượn của từng thanh điệu"" </p><p></p><p>22 phụ âm là gồm cả R, Tr, S. Không có nên không biết GS cho biết có bao nhiêu nguyên âm. </p><p></p><p>Ch và Tr ở miền Bắc hơi nặng phát âm thành chz, không có âm J nhưng có âm nặng hơn Gị Vì thế các âm J đều bị thay thế bởi âm Gi như Jarai, Java, jăm bông, nạc jăm biến thành Gia Lai, Gia va, giăm bông, nạc giăm. Gi không phải là một âm gồm hai âm vị G và I mà là một vị duy nhất /z/. Âm Gi có nguồn gốc xa xưa từ âm /ji/ tiếng Hán, ngày nay chỉ một số nhỏ đọc đúng Gi, còn đa số đọc là /z/ nên ta có thể cho nhập chung vào âm vị /z/. </p><p></p><p>Tương tự Qu không phải tạo thành bởi hai âm vị mà là một âm vị duy nhất /kw/ , khác biệt với âm vị /k/ (phụ âm c). Quả cam không phải là /k/ủa cam -vì như thế sẽ đọc là của cam- mà là /kw/ả cam. Tương tự quốc là /kw/ốc chớ không phải là /k/uốc vì như thế sẽ đọc là cuốc (xuổng). Sở dĩ các nhà tiền phong không dùng Kw mà dùng Qu để ba miền đều đọc được theo đúng phát âm của mình. Qu đọc là /kw/ như trong từ quit tiếng Anh. Tiếp theo là nói về nguyên âm. </p><p></p><p>11 nguyên âm đơn (monothong): a, ă, â, e, ê, i <img src="https://cdn.jsdelivr.net/gh/twitter/twemoji@14.0.2/assets/72x72/1f44d.png" class="smilie smilie--emoji" loading="lazy" width="72" height="72" alt="(y)" title="Thumbs up (y)" data-smilie="22"data-shortname="(y)" />, o, ô, o, u, u </p><p></p><p>28 nguyên âm kép (diphthong, nh? trùng âm) : ai, ay, ây, ao, au, âu, eo, êu, ia, iu, iê, oa, oa, oe, oi , ôi, oi, ua, uâ, uê, ui, uô, uy, ua, ui, uo, uu, iạ </p><p></p><p>9 nguyên âm ba (triphthong, tam trùng âm): iêu, oai, oay, uây, uôi, uoi, uou, uya, uyê </p><p></p><p>Tuy tên gọi là tam trùng âm nhưng nhiều khi chỉ là nhị trùng âm dài. Thí dụ như uôi là uui, ươi là ư ư i,ươu là ưưu. </p><p></p><p>Tổng số nguyên âm là 11 + 28 + 9 = 48 </p><p></p><p>Miền Bắc có 6 thanh +20 phụ âm + 48 nguyên âm = 74 âm vị, bằng với số âm vị tiếng Thái. </p><p></p><p>Miền Nam có 5 thanh +23 phụ âm + 48 nguyên âm = 77 âm vị, Tiếng Việt chung cho mọi phương ngữ có = 74 + 7 = 81 âm vị . </p><p></p><p>ể tiện so sánh xin ghi lại (pâ là phụâm, nâ là nguyên âm) các nhận định của </p><p></p><p>Tiến sĩ 6 thanh +19 pâ+11 nâ đơn= 36 bài Internet 6 thanh +22 pâ+ 13 nâ đơn+ 3 nâ kép = 44 </p><p></p><p>Tiếng Thái 5 thanh +21 pâ +48 nâ =74 âm vị Tiếng Khmer 33 pâ + 24 nâ =57 âm vị </p><p></p><p>Tiếng Anh 24 pâ+11 nâ đơn+4 nâ kép+1 untressed âm= 40 âm vị Tiếng Việt 6 thanh+23 pâ+11nâ đơn+28 nâ kép+9 nâ ba= 81 âm vị.</p><p></p><p>(Còn nữa)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="vosong, post: 21654, member: 92"] [b]Âm vị tiếng Việt (TT)[/b] Âm vị được định nghĩa tổng hợp lại như sau: ""Âm vị là một đơn vị nhỏ nhất và liên tục của tiếng nói, làm phân biệt các từ, từ đó tiết được thành lập"" Trùng âm có phải là âm vị hay không? Cái mấu chốt của vấn đề là ở chỗ các nhị và tam trùng âm là một âm vị hay tập hợp nhiều âm vi Trường phái cổ điển không công nhận trùng âm là âm vị . Trường phái Tây phương coi mỗi trùng âm là một âm vi Quan niệm cổ điển không đúng vì các lý do sau đây : -Nếu chúng ta đã khẳng định các phụ âm kép đầu từ /th/, /ng/, /nh/, /kh/ là âm vị thì sẽ không nhất quán nếu chúng ta không công nhận các trùng âm là âm vi Phụ âm và nguyên âm đều có tác động như nhau trong sự thành lập âm vị . -Mỗi âm vị phải được phát âm một cách liên tục, nói khác đi âm vị không thể đập vỡ ra cho nhỏ hơn nữa mà không làm thay đổi nghĩa của tự Thí dụ âm Ía không thể phân tích thành hai âm Í và a vì như thế sẽ có nghĩa khác như câu "Cô Thúy uể oải tới Chú Ía hát hò" nếu tách rời các trùng âm thì sẽ có nghĩa hoàn toàn khác hẳn là "Cô Thú-y ủ-ê o ai ? Tới Chú, í-a hát hò" -Bây giờ ta hãy dùng lý luận để xem các trùng âm có vị trí như thế nào trong văn phạm. Lấy thí dụ âm "oai" trong từ ngoái là từ, âm tiết hay âm vị . Rõ ràng oai không phải là từ vì ngoái mới là tự oai cũng không phải là âm tiết vì ngoái mới là âm tiết. Còn nếu ta phân tách thành ngó-ai thì từ sẽ có hai âm tiết ngó và ai. Điều này mâu thuẩn với sự thật không chối cải được là ngoái chỉ có một âm tiết. Đó là chưa kể phân tích như thế sẽ làm thay đổi nghĩa của từ, điều này không được làm. Không phải là từ, không phải là âm tiết, cũng không thể phân tích ra nhỏ hơn nên oai phải là âm vị, không còn con đường nào khác để chọn lựa . -Tách rời các trùng âm là trái với quan điểm của các nhà ngôn ngữ học Tây phương khi nghiên cứu ngôn ngữ Á Châu. Các nguyên âm ghép sau đây đều được coi là vowel hay phoneme : ai, ao, ưa, ia, iu, uay, nguyên âm dài như uu trong tiếng Thái hay ai,ao,ay,oa trong tiếng Khmer hoặc ai,au trong tiếng Indonesia . Tách rời các trùng âm sẽ làm thay đổi ý nghĩa của một câu nói, tương tự như cách chấm câu . Một Giáo thụ (Professor) ngôn ngữ học viết một số từ lên bảng ""Đàn bà không có đàn ông là con số không"" rồi ra lệnh cho sinh viên chấm câu cho đúng. Con trai viết :""Đàn bà, không có đàn ông, là con số không"" Con gái viết :""Đàn bà không có, đàn ông là con số không"" Đa hệ viết : ""Đàn bà không, có đàn ông, là con số không"" -Cứ cho là các học giả Tây không rành ngôn ngữ Á Châu nên xếp sai các trùng âm vào âm vị đi nữa, nhưng tại sao bốn nhị trùng âm tiếng Anh, tương đương với bốn âm tiếng Việt, đều được đặt trong bảng âm vị ? Thật vậy theo bảng Amercan English Phoneme Representation thì tiếng Anh có 40 âm vị phân chia ra như sau : 24 phụ âm 15 nguyên âm gồm có 11 nguyên âm đơn (monothongs), 4 nguyên kép (dipthongs, đó là /aw/ trong bout, /ay/ trong bite, /yu/ trong butte hay tiu nguỷu, /oy/ trong boy) và 1 untressed âm /er/ như trong banana . Nếu nhị trùng âm là âm vị thì đương nhiên các tam trùng âm trong tiếng Việt phải được coi là âm vị . -Nhiều âm tuy ghi giống hệt nhau nhưng đọc khác nên số âm vị phải khác nhau. Thí dụ seatle, vì đọc là si- ê - thầu nên ea có hai âm vị e và a nhưng seat vì đọc là si:t nên ea chỉ có một âm vị . Tùy theo ngôn ngữ và chữ cái, âm vị có thể được viết bằng một chữ cái nhưng cũng thường được viết bởi nhiều chữ cái như âm vị eau trong beauty tiếng Anh hay iêu trong biêu tiếng Việt. Không phải khi viết ba nguyên âm kề nhau như are là có ba âm vi Âm are chỉ có một âm vị với ký hiệu áÿ Bought chỉ có bốn âm vị là b, ao, t và dấu nhấn, gh không tính vào âm vị, theo một bộ tự điển tiếng Anh. Thanh sắc : Thanh sắc được đo lường bằng tần số (Hz). Cái gì làm cho má khác với má, ma, mã, mả, mạ ? 'ÿó là thanh sắc. Vì âm vị là một đơn vị âm thanh làm phân biệt các từ với nhau nên thanh sắc là âm vị chớ không phải là một thành phần của âm vị như viện ngôn ngữ học Bắc Kinh đã phân loại như trên. Số thanh thay đổi từ 4 đến 8 như tiếng BK có 5 thanh, tiếng Q'ÿ tự xưng là có 8 thanh, điều này cũng nên xét lại vì nhiều thanh chính người Q'ÿ cũng không phân biệt được. Tương tự chỉ có 50% dân miền Bắc là phát âm đúng hỏi ngã theo một kết quả của một học giả khi phân tích âm thanh của một số người, 50% còn lại phát âm dấu hỏi gần như là dấu nặng, dấu nặng thành lơ lững, dấu ngã gần dấu sắc. Muốn cho từ ngữ không lẫn lộn thì 5 thanh như tiếng Thái là mức tối đa (làm sao qua mặt được thanh sắc tiếng Thái, được coi như phát xuất ra thanh sắc tiếng Việt và Tàu?), nhiều hơn thì chữ tác đánh chữ tộ, chính ngay dân địa phương còn không phân biệt được thì nói gì đến những người thuộc miền khác, họ nghe không quen thì tưởng là bỏ dấu sai. Khi có nhiều sắc tộc cùng xữ dụng một ngôn ngữ thì ngôn ngữ sẽ từ từ trở nên giản dị, dễ hiểu, dễ phát âm như tiếng BK đã tự động đào thải nhiều âm phức tạp hay tiếng Sanscrit đã giản dị hóa để trở thành tiếng Ấn hiện tại . Tiếng Mã Lai, Tây Tạng, Mon có âm điệu nằm giữa dấu nhấn và thanh nghĩa là khá quan trọng, không phải là không có cũng không sao như tiếng Anh. Mẫu tự Latin. Tập hợp 26 âm vị cơ bản nhất gồm có 5 phụ âm a, e, i, o, u và 21 phụ âm, đủ để ghi tòan bộ âm vị tiếng Latin nhưng không đủ để ghi hết tất cả các âm vị của mọi ngôn ngữ . Số âm vị không căn cứ vào số nguyên âm hay phụ âm. Tổng số âm vị của một ngôn ngữ có thể nhiều hơn hay ít hơn tổng số 26 chữ cái Latin. Một âm vị có thể dùng một hay nhiều chữ cái để tượng trưng. Từ 26 chữ cái ta có thể ghi hằng trăm âm vi Từ số âm vị ta có thể ghi hằng chục ngàn âm tiết. Tiếng Hán có 41 âm vị và 1347 âm tiết. Vì chữ Hán ghi âm tiết nên tối thiểu cũng phải có hằng ấy chữ tượng hìmh. Nhưng số từ cần thiết dùng trong văn hóa kỹ thuật cần ít nhất hằng chục ngàn từ nên không thể tránh được mỗi từ có rất nhiều từ đồng âm. 'ÿể tránh từ nọ đọ với từ kia họ phải sáng chế nhiều chữ Hán khác nhau cho mỗi từ đồng âm, vì thế có chừng mười ngàn chữ Hán cho hơn một ngàn âm tiết. Muốn đọc được sách báo phải cần hơn hai ngàn chữ và mất khoảng bảy năm. Chữ Quốc ngữ dùng mẫu tự Latin để ghi âm vị và tổng số âm vị tiếng Việt là 81 nên học rất dễ trung bình chừng hai tháng. Làm một con tính ta thấy ngay nếu phải học 2000 chữ Hán thì thời gian là (2000: 81) x 2 = 49 tháng hay 4 năm. Còn nếu phải học 10000 chữ thì thời gian dài gắp năm lần tức 20 năm. Bỏ ra 20 năm chỉ để học chữ Hán thì hơi phí của. Thời gian dài đăng đẳng này có thể dùng để lấy được mấy cái bằng Tiến sị Thời cổ văn minh Trung Hoa rất xán lạn nhưng dần dần đứng khựng lại trong khi Tây phương phát triển mạnh mẽ, có thể một phần là lối chữ tượng hình, tuy có điểm lợi là thống nhất được nước Trung Hoa nhưng đồng thời một phần nào đó đã ngăn cản sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. 'ÿể ghi tiếng nói người Nhật dùng chữ chữ Hán và chữ Nhật. Cả hai ghi âm tiết nhưng vì tiếng Nhật chỉ có 140 âm tiết nên chữ Nhật chỉ cần bằng ấy chữ viết. Tiếng Việt phức tạp hơn nhiều vì có số âm tiết khổng lồ khỏang 18000, tạm gọi là đủ để diễn tả mọi sự việc thông thường mà không bị làm khó hiểu bởi từ đồng âm và do đó có thể dùng chữ cái Latin để viết rời từng từ một cách dễ dàng, rõ ràng và gọn ghẹTrái lại nếu ta dùng chữ Hán để ghi tiếng Việt thì sẽ gặp muôn vàn khó khăn, như chữ Nôm chẳng Hạn khó học khó nhớ hơn cả chữ Hán vì phải nhớ tới 18000 chữ khác nhau . Ngôn ngữ có thể có từ 2 tới 25 nguyên âm, và 5 tới 100 phụ âm (độ chừng, có ai biết chính xác là bao nhiêu không?). Tổng số âm vị trong mỗi ngôn ngữ thay đổi từ ít nhất là 11 trong tiếng Rotokas (Papa New Guinea), 12 trong tiếng Hawaiian tới nhiều nhất lên đến 141 của bộ lạc !Xu ở Phi châu. Xin kể thêm vài trường thái quá như có: 2 nguyên âm trong vài phương ngữ của tiếng Abkhaz 3 nguyên âm trong nhiều tiếng dân da đỏ Mỹ châu, Á Rập hay Úc đen 25 nguyên trong tiếng Punjabi 6 phụ âm trong tiếng Rotokas Hơn 100 phụ âm trong tiếng Xu Ta thấy có sự tương tự giữa Vật lý và ngôn ngự Phân tử, nguyên tử và hạch nhân tương ứng với từ, âm tiết và âm vi Từ gồm một hay nhiều âm tiết giống như phân tử cấu tạo bởi một hay nhiều nguyên tự Nguyên tử có thành phần là hạt nhân tương ứng âm tiết có thành phần là âm vị . Tưởng cũng nên lập lại vài định nghĩa để dễ bề so sánh : Phân tử (molecule) : mãnh nhỏ nhất (thường là một nhóm nguyên tử) của vật chất được làm cho nhỏ hơn bằng cách phân chia mà không làm thay đổi đặc tính hoá học. Nguyên tố (element) : Chất không thể phân giải được thành chất đơn giản hơn bằng phương tiện hoá học. Nguyên tử (atome) : phần tử nhỏ nhất của nguyên tố hoá học hay là phần nhỏ nhất của vật chất không thể chia nhỏ hơn nữa bằng phương tiện hoá học. Hạch nhân (nucleus) : Hạt nằm ở trung tâm nguyên tử gồm có proton và neutron. Âm vị là cái mầm, cái lỏi, cái cốt lỏi, cái cùi, cái ngòi, cái hạt nhân hay hạch nhân của tiếng Việt. Và cũng giống như sinh vật, mọi sinh vật ngoài một số gen riêng biệt còn có một số gen chung với các giống khác. Ngôn ngữ cũng thế, kể cả tiếng Việt, ngoài một số từ riêng tư cho từng ngôn ngữ còn có một số từ chung cho toàn thể tiếng nói của nhân loại. Tiếng Việt chứa nhiều tiếng Anh từ thời tiền sử cũng là chuyện thường tình, không có mới là quái la Nếu DNA có thể được dùng để tìm nguồn gốc người Việt thì ngôn ngữ cũng rất hữu dụng trong công cuộc truy cứu gốc tích người Việt nói riêng và Bách Việt nói chung. Allophone (âm vị giống) là biến thể của âm vi Allophone của miền này có thể là phoneme của miền khác. Ch và Tr là allophone của miền Bắc nhưng là phoneme của miền Trung và Nam. Tương tự n và ng cuối âm tiết là âm vị miền Bắc nhưng là allophone của miền Nam. Câu ""Chị Lan than thở trên thang"" nếu ở miền Bắc thì trở thành ""Chzị Lan zầu zĩ than thở chzên thang"" còn miền Nam sẽ là ""Chị Lang rầu rỉ (dấu hỏi) thang thở trên thang"" Morpheme (hình vị) là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa (a word or meaningful part of a word for instance 'thé, 'speak' or the 'en' of 'spoken') như là một cơ bản (base), tiền tố hoặc hậu tố . Một từ có thể chứa hơn một hình vi "Unable" có thể chia thành hai hình vị- tiền tố "un" và "able", trong khi đó "mahogamy" không thể chia nhỏ được nữa. Tiếng Việt không có tiếp tố nên không có hình vị và mỗi từ đa số chỉ có một âm, ngoại trừ một số ít từ đa âm tiết như sa-vông, lông bông, cà nhổng, ba bả . Vì ngôn ngữ học rất rắc rối và khó hiểu nên ít người chú ý tới và do đó số học giả ngôn ngữ học rất hiếm, đếm được trên đầu các ngón tay của một bàn tay. Nếu người nào để ý nghiên cứu thì lại hiểu vấn đề một cách lộn xộn, kể cả những nhà ngôn ngữ học. May ra thì mấy nhà toán học mới hiểu thấu mọi gút mắc của vấn đề nhưng mấy ông này còn lâu mới rớ tới vì đâu phải là nghề của chàng. Mà có muốn cũng không được. Sau khi đã trang bị đầy đủ các định nghĩa thì bây giờ là lúc ta thẩm định lại số âm vị tiếng Việt. Âm vị tiếng Việt Nếu ta theo đúng định nghĩa Tây phương về âm vị và phân tích theo các nhà ngôn ngữ Tây phương về nguyên âm thì tiếng Việt có rất nhiều âm vi Xin liệt kê âm vị tiếng Việt phát âm miền Bắc như sau: 6 thanh điệu: không, sắc, huyền, hỏi, nặng, ngã 20 phụ âm (ký hiệu phát âm được ghi trong hai gạch //, nhưng để giản dị, không ghi ký hiệu nếu phát âm trùng với chữ cái). B, /K/ (C vàK), /Chz/ (CH và Tr miền Bắc), /d/ ('ÿ), /G/ (G và Gh), H, Kh, L, M, N, Ng (Ngh), Nh, P (Phụ âm đầu từ P là âm cổ nay dần dần phục hồi trở lại như pông sô, pia nô, pin), /Kw/ (Qu như quít), /F/ (Ph), T, Th, V, X, /Z/ (D, R, Gi miền Bắc). Miền Nam có thêm 7 phụ âm Ch, Tr, R, S, J (/ / như Jarai, jăm bông, ăn jơ), Y (Y, ghi âm quốc tế là /j/, là phụ âm đầu từ D nhẹ miền Nam và dùng cho các từ ngoại quốc như đồng Yen, ya ua, yo yo, yoga), W (Qu, oa, Hoa), nhưng không có âm Chz, Z, Kw, V. Tổng số phụ âm của phát âm miền Nam là 20 - 4 + 7 = 23. Tổng số phụ âm cho mọi phương ngữ là 20 + 7 = 27 'ÿến đây ta mới thấy sự khó khăn và tài tình của các nhà tiền phong khi sáng tạo chữ Quốc ngự Họ phải suy nghĩ nhiều cách để cả ba miền cùng xữ dụng một thứ chữ nhưng có thể đọc theo phát âm của mình, tương tự như Hán tự dùng cho mọi sắc dân Trung Quốc. Các ca sĩ trẻ nước ngoài phát âm Ch thành Chs tương tự như âm Ch tiếng Anh, nghe rất kỳ lạ và ngộ nghĩnh y như Mỹ nói tiếng Việt, lơ lớ giọng mũi . Liệt kê các âm vị rất khó khăn nên mỗi người một ý kiến. Như Giáo sư ngôn ngữ học Nguyễn 'ÿình Hòa trong "Tiếng Việt không son phấn" cho tiếng Việt gồm mọi phương ngữ có 22 tử âm, thể theo một bài lấy từ Internet ""'ÿáng lưu ý là bảng liệt kê 22 âm vị tử âm (consonant phonemes) dùng trong mọi phương ngữ VN -- bằng ký hiệu như /b-/, /f-/, /z-/, vân vân -- có thể đứng đầu các âm tiết, cùng với những chữ cái trong mẫu tự Việt được dùng để biểu hiện những âm vị này. Thí dụ, âm vị /k-/ thường được biểu hiện bằng những chữ cái c-, k-, q- (con cá, cái kim, quả cam) (trang 20). Biểu đồ của 6 thanh điệu (trang 20) cho người đọc thấy rõ độ cao thấp cùng với đường uốn lượn của từng thanh điệu"" 22 phụ âm là gồm cả R, Tr, S. Không có nên không biết GS cho biết có bao nhiêu nguyên âm. Ch và Tr ở miền Bắc hơi nặng phát âm thành chz, không có âm J nhưng có âm nặng hơn Gị Vì thế các âm J đều bị thay thế bởi âm Gi như Jarai, Java, jăm bông, nạc jăm biến thành Gia Lai, Gia va, giăm bông, nạc giăm. Gi không phải là một âm gồm hai âm vị G và I mà là một vị duy nhất /z/. Âm Gi có nguồn gốc xa xưa từ âm /ji/ tiếng Hán, ngày nay chỉ một số nhỏ đọc đúng Gi, còn đa số đọc là /z/ nên ta có thể cho nhập chung vào âm vị /z/. Tương tự Qu không phải tạo thành bởi hai âm vị mà là một âm vị duy nhất /kw/ , khác biệt với âm vị /k/ (phụ âm c). Quả cam không phải là /k/ủa cam -vì như thế sẽ đọc là của cam- mà là /kw/ả cam. Tương tự quốc là /kw/ốc chớ không phải là /k/uốc vì như thế sẽ đọc là cuốc (xuổng). Sở dĩ các nhà tiền phong không dùng Kw mà dùng Qu để ba miền đều đọc được theo đúng phát âm của mình. Qu đọc là /kw/ như trong từ quit tiếng Anh. Tiếp theo là nói về nguyên âm. 11 nguyên âm đơn (monothong): a, ă, â, e, ê, i (y), o, ô, o, u, u 28 nguyên âm kép (diphthong, nh? trùng âm) : ai, ay, ây, ao, au, âu, eo, êu, ia, iu, iê, oa, oa, oe, oi , ôi, oi, ua, uâ, uê, ui, uô, uy, ua, ui, uo, uu, iạ 9 nguyên âm ba (triphthong, tam trùng âm): iêu, oai, oay, uây, uôi, uoi, uou, uya, uyê Tuy tên gọi là tam trùng âm nhưng nhiều khi chỉ là nhị trùng âm dài. Thí dụ như uôi là uui, ươi là ư ư i,ươu là ưưu. Tổng số nguyên âm là 11 + 28 + 9 = 48 Miền Bắc có 6 thanh +20 phụ âm + 48 nguyên âm = 74 âm vị, bằng với số âm vị tiếng Thái. Miền Nam có 5 thanh +23 phụ âm + 48 nguyên âm = 77 âm vị, Tiếng Việt chung cho mọi phương ngữ có = 74 + 7 = 81 âm vị . ể tiện so sánh xin ghi lại (pâ là phụâm, nâ là nguyên âm) các nhận định của Tiến sĩ 6 thanh +19 pâ+11 nâ đơn= 36 bài Internet 6 thanh +22 pâ+ 13 nâ đơn+ 3 nâ kép = 44 Tiếng Thái 5 thanh +21 pâ +48 nâ =74 âm vị Tiếng Khmer 33 pâ + 24 nâ =57 âm vị Tiếng Anh 24 pâ+11 nâ đơn+4 nâ kép+1 untressed âm= 40 âm vị Tiếng Việt 6 thanh+23 pâ+11nâ đơn+28 nâ kép+9 nâ ba= 81 âm vị. (Còn nữa) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔN NGỮ HỌC
Tiếng Việt
Âm vị tiếng Việt
Top