Âm tố, âm vị và âm tiết trong tiếng Việt

bichngoc

Moderator
TÌM HIỂU VỀ ÂM TỐ TIẾNG VIỆT


1- Ðịnh nghĩa

Âm tố là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất không mang chức năng phân biệt nghĩa và nhận diện từ .

Theo ông Ðoàn Thiện Thuật thì : Aâm tố là đôn vị âm thanh nhỏ nhất của lời nói có thể tách ra về mặt cấu âm thính giác , đồng chất trong một khoảng thời gian nhất định và thường tương ứng với mỗi một âm vị .

Như vậy nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của ngữ âm ( bao gồm cơ sở âm học và snh lí ).

Âm tố là những yếu tố tự nhiên . Chúng phụ thuộc vào các yếu tố như : ngữ điệu, hoàn cảnh phát âm khi chúng kết hợp với các yếu tố khác trong cùng một âm tiết , bộ máy phát âm của mỗi cá nhân. Chính vì vậy , khi nói về số lượng của âm tố người ta không thể đếm được , chúng có vô vàn trong cuộc sống và chúng không phải là các yếu tố chuẩn .

Kí hiệu của âm tố là chúng được phiên âm giữa hai gạch vuông [ ] .

Ví dụ : [ b ], [ d ],... Ngoài chúng còn có một số các yếu tố phụ như : ngạc hóa, môi hóa, ngắn,dài ....

2- Các loại âm tố

a-Phân loại âm tố về mặt cấu âm :

* Âm tố nguyên âm:


Các nguyên âm không thể phân loại theo tiêu chuẩn như của phụ âm. Về mặt phương thức cấu âm, nguyên âm chỉ thuộc vào một phương thức đó là luồng hơi ra tự do. Nguyên âm không có vị trí cấu âm vì rằng các khí quan không tạo thành khe, cũng không tạo thành chỗ tắc. Các nguyên âm cũng không thể phân loại theo tiếng thanh, vì bình thường, bất cứ nguyên âm nào cũng có tiếng thanh.

Các nguyên âm chỉ khác nhau ở các hoạt động của các khí quan phát âm, trong đó quan trọng nhất là lưỡi. Vì sự thay đổi vị trí của lưỡi gây ra sự khác nhau rất lớn giữa các nguyên âm. Lưỡi chuyển động tới- lui và lên- xuống trong khoang miệng tạo nên những tương quan phức tạp giữa các khoang cộng minh ( khoang miệng và mũi), làm thay đổi hình dáng và thể tích của chúng. Môi tròn lại và đưa về trước, làm kéo dài lối thoát của luồng không khí, hoặc môi chành ra, làm cộng minh trường phía trước ngắn lại.

Người ta thường phân loại nguyên âm theo vị trí của lưỡi, độ nâng của lưỡi và hình dáng của môi.

- Phân loại theo vị trí của lưỡi: ta có các nguyên âm dòng trước (khi lưỡi dồn về trước), nguyên âm dòng sau ( khi lưỡi dồn về sau) và nguyên âm dòng giữa ( khi lưỡi ở giữa miệng nâng lên). Ví dụ, trong tiếng Việt, các nguyên âm dòng trước là[ i ],[ e ],[ ê ], nguyên âm dòng sau là [ u ], [ o ],[ ô]â và nguyên âm dòng giữa là[ ư ],[ ơ ],[ a].

- Theo độ nâng của lưỡi: các nguyên âm được chia thành nhiều loại khác nhau, tùy từng ngôn ngữ. Ðơn giản nhất là có ba độ nâng của lưỡi như trong tiếng Nga ( cao, trung bình và thấp). Ðộ nâng của lưỡi tương ứng với độ mở của miệng, nên các nguyên âm có độ nâng cao còn gọi là nguyên âm hẹp, nguyên âm có độ nâng thấp còn gọi là nguyên âm mở. Trong ngữ âm học đại cương không có một cách phân loại tuyệt đối theo độ nâng lưỡi vì mỗi ngôn ngữ có một hệ thống nguyên âm khác nhau. Ví dụ, các nguyên âm dòng trước trong tiếng Pháp có 4 độ nâng, các nguyên âm trong tiếng Ðức có 5 độ nâng, còn trong tiếng Anh có 6 độ nâng. Trong tiếng Việt, các nguyên âm đơn có thể chia thành 4 độ nâng:

- Hẹp [ i] , [ u ],....

- Hơi hẹp [ ê ], [ ư ],...

- Hơi rộng [ o ] , [ e ],...

- Rộng [ ă ], [ a],...

- Theo hình dáng môi: Các nguyên âm được chia thành nguyên âm tròn môi ( như [ u ],[ ô ] â,[ o ]) nguyên âm không tròn môi ( như [ i ],[ ê] [e],[ ư],[ ơ], [a]). Sự tròn môi rõ nhất ở nguyên âm khép và yếu nhất ở nguyên âm mở.

Dựa theo vị trí khác nhau của lưỡi khi cấu tạo các nguyên âm trong khoang miệng, người ta biểu diễn các nguyên âm trên hình thang nguyên âm quốc tế.


* Âm tố phụ âm:

( Trước tiên , theo mối quan hệ giữa tiếng thanh và tiếng ồn trong cấu tạo của phụ âm, các phụ âm được chia thành các phụ âm vang( tiếng thanh nhiều hơn tiếng ồn) và các phụ âm ồn. Trong các phụ âm ồn lại chia ra các phụ âm hữu thanh ( phát âm có sự tham gia của tiếng nhanh, do dây thanh rung động) và phụ âm vô thanh ( phát âm không có sự tham gia của tiếng thanh).

Nhóm các phụ âm vang có thể được coi là một nhóm trung gian giữa các nguyên âm và các phụ âm ồn. Khi phát âm các phụ âm vang, chướng ngại được tạo thành nhưng có thể là chỗ tắc yếu ( như ở phụ âm [r] tiếng Nga hay [R] tiếng Pháp hay [ l] tiếng Việt) hoặc không khí không những trực tiếp vượt qua chỗ có chướng ngại mà còn đi ra tự do qua mũi ( như ở các phụ âm [m], [n] trong tiếng Việt).

- Sự phân chia thứ hai của các phụ âm là phân chia theo phương thức cấu tạo tiếng ồn, tức theo tính chất của chướng ngại, thành các phụ âm tắc, xát và rung.

Phụ âm tắc được tạo thành khi hai khí quan tiếp xúc nhau, tạo thành chỗ tắc, canû trở hoàn toàn lối ra của luồng không khí. Ví dụ: Các phụ âm [p], , [t], [d].

Phụ âm xát được tạo thành khi hai khí quan nhích lại gần nhau, làm cho lối ra của luồng không khí bị thu hẹp; luồng không khí đi qua khe hẹp này cọ xát vào thành của bộ máy phát âm. Ví dụ: Các phụ âm [f], [v], , [z], [h].

Phụ âm rung được tạo thành khi các khí quan dễ rung động ( như đầu lưỡi, lưỡi con hay môi) nhích lại gần nhau tạo thành một khe hở rất hẹp hay một chỗ tắc yếu, luồng không khí đi ra mạnh làm cho các khí quan ấy rung lên (Ví dụ: phụ âm [r] trong tiếng Nga hay[R] trong tiếng Pháp).

Trong cách cấu âm của phụ âm, người ta thường phân biệt ba giai đoạn:

+ Giai đoạn tiến: khí quan phát âm chuyển đến vị trí cấu âm.
+ Giai đoạn giữ: khí quan phát âm ở vị trí cấu âm.
+ Giai đoạn lùi: khí quan phát âm rời khỏi vị trí cấu âm.

Hai giai đoạn đầu giống nhau ở bất cứ âm tắc nào. Về giai đoạn thứ ba, cần phân biệt các tiểu loại âm tắc: âm nổ, âm mũi, âm tắc- xát và âm khép.

Các phụ âm khép không thể gặp trước nguyên âm, mà chỉ thường xuất hiện ở cuối từ hay trước một phụ âm tắc khác. Trong tiếng việt, tất cả các phụ âm ở cuối âm tiết đều là phụ âm khép.

- Sự phân chia thứ ba của phụ âm là sự phân chia theo vị trí cấu tạo ra tiếng ồn hay theo khí quan chủ động khi cấu âm.

Theo vị trí cấu tạo tiếng ồn, các phụ âm thường được chia ra thành các loạt chính như: phụ âm môi, răng, lợi, ngạc mạc, lưỡi con, yết hầu, thanh hầu.

Theo khí quan chủ động, các phụ âm được chia thành các loạt: phụ âm môi, lưỡi trước, lưỡi giữa, lưỡi sau, lưỡi con, yết hầu, thanh hầu.

Trong các nhóm này, có một số cần chia nhỏ ra nữa. Thí dụ trong các âm môi, người ta phân biệt các âm hai môi, thường gọi là âm môi- môi ( ví dụ: [p], , [m]) với các âm một môi, thường gọi là âm môi- răng ( ví dụ: .[f], [v]).

Các âm lưỡi trước thường chia thành nhiều nhóm nhỏ nhưng đáng chú ý là âm đầu lưỡi ( apical) và âm quặt lưỡi (cacuminal).

- Ðối với một số ngôn ngữ, còn có một số cấu âm bổ sung làm thay đổi sắc thái các âm. Ðó là các hiện tượng bật hơi, môi hóa, ngạc hóa, yết hầu hóa, thanh hầu hóa, mũi hóa. Trong tiếng Việt, các cấu âm bổ sung có vai trò quan trọng hơn cả là: hiện tượng bật hơi tức là kèm theo một lưu lượng không khí lớn khi chỗ tắc được bật ra ( ví dụ: phụ âm th); hiện tượng thanh hầu hóa, tức là bổ sung động tác tắc kèm theo sự nâng lên của thanh hầu; và yết hầu hóa- bổ sung động tác khép của yết hầu. Hai hiện tượng sau góp phần hiện thực hóa một số phụ âm đầu và thanh điệu tiếng Việt.

Các cấu âm bổ sung, cũng như các cấu âm khác, đều có thể được sử dụng để khu biệt các âm tố, hay các hiện tượng âm thanh trong ngôn ngữ. Vì vậy, chúng có giá trị bình đẳng với nhau, xét về mặt âm vị học.( Các âm bổ sung này tạo cho các âm tố có những kí hiệu phụ khác nhau trong từng trường hợp cụ thể khi chúng được thể hiện trên mỗi âm tiết.) Ví dụ : ngạc hóa , môi hóa , ngắn, dài,....

Âm tố bán âm : Những âm tố có đặc tính giống nguyên âm về cách phát âm , cách thể hiệnkí hiệu, nhưng thường chỉ đi kèm, bản thân không tạo thành âm tiết được . Nói cách khác, chúng có chức năng khác với chức năng của nguyên âm : Không tạo nên âm sắc chính của âm tiết, không ở đỉnh âm tiết .

b- Phân loại âm tố về mặt âm học :

Sự phân loại các âm tố về mặt âm học đã được xây dưng trên tài liệu âm phổ . Các máy phân tích âm phổ cho chúng ta các phổ hình , qua đó các âm tố thể hiện rõ các đặc trưng âm học : cao độ, cường độ , trường độ...

Khi phân loại âm tố theo tiêu chí này người ta nhận thấy rằng nhiều khi các nguyên âm hoặc phụ âm phụ thuộc vào các yếu tố khác như: ồn >< không ồn, vang >< không vang , các yếu tố bổng trầm ....và chúng ta có thể kể ra khá nhiều các chi tiết thuộc về các yếu tố âm học .

Bổng trầm: Những âm bổng có tần số lớn , còn những âm trầm có tần số nhỏ. Âm bổng là các nguyên âm hàng trước , phụ âm răng , các phụ âm lưỡi trước ( giữa). Âm trầm là các nguyên âm hàng sau, các phụ âm môi và phụ âm lưỡi sau.

Ngắt- không ngắt: Ðó là sự đối lập giữa có và không có sự chuyển tiếp đột ngột., giữa sự có mặt và vắng mặt của âm thanh .các phụ âm xát thường có khởi âm từ từ . Ngược lại , các phụ âm tắc thường có sự ngắt đột ngột sóng âm đi trước bằng một khoảng im lặng hoàn toàn . Các phụ âm tắc ( trừ nhóm mũi) là những âm ngắt. Còn lại là những âm không ngắt.

Loãng đặc : Các âm loãng là những âm có độ nâng của lưỡi cao (những nguyên âm có độ mở của miệng hẹp- hơi hẹp), những phụ âm răng phụ âm môi.( Trên phổ hình chúng có các phoóc măng ở gần trung tâm của phổ hơn ) các âm đặc là những âm có độ nâng của lưỡi thấp ( những nguyên âm có độ mở miệng hơi rộng rộng ),các phụ âm lưỡi trước , lưỡi giữa, lưỡi sau. ( Trên phổ hình chúng có các phoóc măng ở xa trung tâm của phổ hơn )


Hữu thanh Vô thanh: Ðó là sự đối lập giữa có hay không có những dao động điều hoà ở vùng tần số thấp, tương ứng với sự có hay không có sự dao động của dây thanh về mặt cấu âm.

Căng lơi: Những âm căng là những âm có độ dài lớn,năng lượng lớn và có thanh cộng hưởng thể hiện rõ trên phổ hình.( Các phụ âm căng là những phụ âm mạnh, còn những phụ âm không căng là những phụ âm yếu. Còn ở nguyên âm:âm căng là những âm đặc , âm lới là những âm loãng).

Gắt không gắt: Ðó là đối lập giữa cường độ lớn hay nhỏ của tiếng ồn. Trên phổ hình, các âm gắt có vùng tối thay đổi sắc thái rõ rệt.

Các phụ âm xát điển hình, các âm tắc- xát, bật hơi, phụ âm rung là những phụ âm gắt. Những loại hìng âm còn lại là những âm không gắt.

Giáng Không giáng : Các âm giáng là những âm trầm hóa, ( có một số các phoóc măng của chúng bị hạ thấp so với các âm không giáng ). Các nguyên âm tròn môi [ u [, [ ô ], [ o ],... và các phụ âm đứng trước chúng bị môi hóa đều là những âm giáng .

Thăng -không thăng: Ngược lại so với âm giáng , chúng là những âm bổng hóa. Các nguyên âm hàng trước thường là các âm có một trong số các phoóc măng cao hơn các âm không thăng tương ứng .( Ðiều này thể hiện rõ trong các tiếng nước ngoài như tiếng Nga)

Mũi- miệng ( hay mũi- không mũi):
Phổ hình của các âm mũi có mật độ phoóc- măng dày hơn so với các âm miệng tương ứng. Ở các nguyên âm mũi giữa F1 và F2 xuất hiện thêm một phoóc- măng phụ, và đồng thời có sự giảm cường độ của F1 và F2. Về mặt cấu âm, các âm mũi được tạo thành khi ngạc mềm hạ xuống.

Trong tiếng Việt có các âm mũi được thể hiện bằng các chữ cái: m, n, nh, ng.( Chúng chịu ảnh hưởng trực tiếp của khoang mũi)

Thanh hầu hóa không thanh hầu hóa:
Các âm thanh hầu hóa đặc trưng bởi tốc độ biến đổi năng lượng lớn trong một khoảng thời gian ngắn ( về mặt cấu âm đó là sự có mặt của sự xiết hay tắc khe thanh).

Trong tiếng Việt, âm thanh hầu hóa có thể xuất hiệntrong các âm tiết vắng các thủy âm ( phụ âm đầu) trên chữ viết như ăn, uống, uể, oải,... hoặc trước các phụ âm hữu thanh, đặc biệt là trước [ b ],[ đ], và [ l ].

3- Ý nghĩa của sự phân loại âm tố về mặt cấu âm và âm học

* Nghiên cứu cấu âm để dạy và học ngoại ngữ , lồng tiếng cho phim từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác , ( làm cho âm thanh của lời dịch khớp với cấu âm của cấu âm của diễn viên đang nói trên màn ảnh)...v.v.

• Nghiên cứu các âm trên phương diện âm học đã xác định đặc điểm của âm tố một cách trực tiếp , không thông qua hoạt động của bộ máy phát âm . Vì vậy chúng đã giúp người đọc có được sự cảm nhận chính xác mặt âm thanh của mỗi một ngôn ngữ .

(Sưu tầm)
 
Tìm hiểu về âm vị tiếng Việt

TÌM HIỂU VỀ ÂM VỊ TIẾNG VIỆT

1- Ðịnh nghĩa

Có nhiều cách định nghĩa khác nhau .

Theo cuốn Ngữ âm học tiếng Việt hiện đại NXBGD 1972 ,nhóm tác giả Cù Ðình Tú thì âm vị là đơn vị nhỏ nhất của ngữ âm có mang chức năng phân biệt nghĩa và nhận diện từ .

Theo cuốn ngữ âm tiếng Việt của ông Ðoàn Thiện Thuật thì âm vị là tổng thể các nét khu biệt ,được xuất hiện đồng thời (được con người tri giác theo trật tự trước sau) và có chức năng khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị .

Như vậy , ta có thể hình dung những định nghĩa trên đều được định nghĩa ở hai bình diện : Bình diện chức năng khu biệt , tức thuộc về bình diện ngôn ngữ học, và bình diện thời gian , tức mặt thể chất hay vật lí . Aâm vị , một là có thể định nghĩa như một đơn vị âm vị học : Có tác dụng khu biệt , không thể phân tích thành những đơn vị nhỏ hơn kế tiếp nhau trong thời gian . Hai là được định nghĩa như một tập hợp những nét khu biệt được thực hiện đồng thời .

Hai đặc tính : Ðồng thời và kế tiếp được nói đến trong các định nghĩa nói trên không phải là những thuộc tính khách quan có thể quan sát được trong tín hiệu ngôn ngữ , chúng ta có thể dựa vào nó để phân giới giữa cấp độ âm vị với cấp độ nét khu biệt . Hoặc để phân biệt các âm vị đoạn tính với các âm vị siêu đoạn tính.

Theo Giáo sư Cao Xuân Hạo , thì những cách định nghĩa trên vẫn còn có những chỗ chưa thoả đáng : Có tính chất ấn tượng chủ nghĩa , có sự lầm lẫn về cách tri giác tính đồng thời, kế tiếp.. . và theo ông thì chỉ cần thay Một tập hợp những nét khu biệt được thực hiện đồng thời bằng cách cụ thể hơn như Một tập hợp những nét khu biệt có tham gia thế đối lập về trật tự thời gian bên trong cái cái đơn vị ở cấp cao hơn mà nó khu biệt. Từ đó , theo giáo sư thì định nghĩa âm vị là Aâm vị là đơn vị khu biệt âm thanh nhỏ nhất có tham gia vào thế đối lập âm vị học về trật tự thời gian , hoặc âm vị là đơn vị âm vị học tuyến tính nhỏ nhất .

Theo Ðinh Lê Thư và Nguyễn Văn Huệ Nguời ta thường định nghĩa : Aâm vị là đơn vị nhỏ nhất của cơ cấu âm thanh ngôn ngữ , dùng để cấu tạo và phân biệt hình thức ngữ âm của những đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ từ và hình vị .

Ví dụ : các từ tôi và đôi, ta và đatrong tiếng Việt Phân biệt nhau bởi các âm vị / t /, / đ / . Như vậy, nếu thay âm vị này bằng một âm vị khác trong cùng một âm tiết sẽ làm cho âm tiết đó thay đổi về nghĩa hoặc mất nghĩa .

Về chức năng của âm vị : Các âm vị trên nguyên tắc nhất định phải có sự khác nhau , ít nhất là về một đặc trưng nào đó . Chính nhờ sự khác biệt này mà các âm vị có thể tạo ra sự khác biệt về hình thức âm thanh của các hình vị và từ , tạo nên những tín hiệu khác biệt đối với sự cảm thụ của con người . Chức năng khu biệt vỏ âm thanh của hình vị và từ , chức năng cấu tạo nên những thành tố của đơn vị có nghĩa . ( Có những âm tiết có thể do nhiều âm vị cấu tạo nên , ví dụ chuyện gồm 5 âm vị cấu thành. Nhưng cũng có những âm tiết chỉ gồm 2 âm vị cơ bản , ví dụ : u mẹ , y- hắn ta )

Kí hiệu âm vị : Xác định chính xác các âm vị mang chức năng khu biệt nghĩa , khi đó mới đặt chúng vào trong hai gạch đứng . Ví dụ / K / , / b / ,...

2- Biến thể của âm vị

Mỗi một ngôn ngữ có số lượng hữu hạn các âm vị mang nghĩa , ì thế những âm vị này đã kết hợp với nhau trong nhiều hoàn cảnh và vị trí khác nhau . Không những thế các âm vị lại còn được thể hiện cụ thể hoá trong những lời nói của các cá nhân ở các địa phương khác nhau. Chính vì vậy, âm vị được thể hiện đa dạng dưới hình thức các biến thể .

Chúng ta gọi tất cả những âm tố khác nhau cùng thể hiện một âm vị là là những biến thể của âm vị đó .

a- Sự phân bố âm vị và các biến thể của chúng :

* Phân bố tương đương ( hoàn toàn trùng nhau).
* Phân bố bổ sung .
* Phân bố tương đương bộ phận.
- Phân bố bao hàm.
- Phân bố giao nhau.

Ví dụ :
AB ; A B ; B A ; A B ;
kiểu 1 ; kiểu 2 ; kiểu 3a ; kiểu 3b

b- Các kiểu biến thể :


* Biến thể tự do.
* Biến thể bắt buộc .

Các biến thể bắt buộc được chia thành biến thể kết hợp và biến thể vị trí

3- Các nét khu biệt âm vị và sự đối lập âm vị

a- các nét khu biệt âm vị
: Ðó là bao gồm hàng loạt các đặc trưng tồn tại đồng thời để tạo thành một âm vị thống nhất. Trong số các đặc trưng ấy người ta phân biệt những đặc trưng cần yếu để khu biệt các âm vị . Những đặc trưng cần yếu của âm vị được gọi là nét khu biệt .

Ví dụ : / d / : hữu thanh - đầu lưỡi / răng tắc .
/ t / : Vô thanh - đầu lưỡi / răng - tắc .
Nét khu biệt giữa hai âm vị trên là : hữu thanh và vô thanh .

Như vậy : nét khu biệt được xác định trên cơ sở sự đối lập âm vị trên một ngôn ngữ cụ thể . Nét khu biệt có thể xảy ra có lúc là hai yếu tố đối lập nhau .

b - Sự đối lập âm vị : Sự đối lập giữa hai âm vị tạo thành thế đối lập

Ví dụ : / v / và / f / : có nét đối lập giữa hữu thanh và vô thanh

Có các loại thế đối lập như sau :
- Thế đối lập một tiêu chí .
- Thê đối lập nhiều tiêu chí .
- Thế đối lập loại hình .
- Thế đối lập đơn lập.

các âm âm vị tạo thành một hệ thống : Ðó là hệ thống các thế đối lập âm vị .

4- Phiên âm ngữ âm học

Phiên âm ngữ âm học là hình thức cơ bản của việc phân tích các ngôn ngữ .Các nhà ngôn ngữ học dựa trên sự phân đoạn của các kí hiệu ng6n ngữ trên một ngôn ngữ cụ thể , sự phiên âm này dựa trên sự phân đoạn các âm vị học . Nó sử dụng một hệ thống chặt chẽ của các kí hiệu , thường là một kí hiệu ghi một âm vị . Ví dụ : trong tiếng Anh pace được phiên âm như sau : / peis /. Trong tiếng Việt nhà : / na /

Sự mở rộng của loại phiên âm này được gọi là phiên âm các biến thể .

(Sưu tầm)
 
Tìm hiểu về âm tiết tiếng Việt

TÌM HIỂU VỀ ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT


1- Ðịnh nghĩa

Tiếng Việt là ngôn ngữ khác với các ngôn ngữ Aán Aâu , nó là ngôn ngữ đơn tiết . Việc này có thể thấy rất rõ qua một chuỗi phát âm của người việt . Chuỗi phát âm có thể được chia ra thành những khúc đoạn nhỏ , lớn khác nhau. chính vì vậy khi định nghĩa âm tiết người ta thường định nghĩa một cách đơn giản :

Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất , đơn vị tự nhiên nhất trong lời nói của con người . Mỗi âm tiết là một tiếng .

Ví dụ : Tiến lên toàn thắng ắt về ta.

Qua ví dụ trên chúng ta sẽ có 7 âm tiết khác nhau .

Ðiều đặc biệt trong tiếng Việt là âm tiết có thể trùng với từ khi từ đó là từ đơn (bàn : một âm tiết và đồng thời cũng là một từ ), cũng có khi âm tiết trùng với một âm vị ( ví dụ u vừa là âm tiết vừa là âm vị ).

2 - Cấu tạo về cách phát âm của âm tiết tiếng Việt

Thuyết độ căng:

Mỗi âm tiết khi phát âm đều trải qua ba giai đoạn :

* Giai đoạn tăng độ căng
* Giai đoạn đỉnh điểm của độ căng
* Giai đoạn giảm độ căng và đi đến kết thúc .

Theo cách phát âm này chúng ta có sơ đồ hình sin cho mỗi một âm tiết , và nhìn vào sơ đồ hình sin chúng ta nhận thấy các âm tiết luôn có độ dài bằng nhau.

Trong tiếng Việt ( và các ngôn ngữ đơn lập khác ) âm tiết (hay tiếng hay chữ hay tiết vị ) đều là đơn vị ngữ học trung tâmcủa hệ thống kí hiệu. Các âm tiết có thể là hình vị , từ, ( theo Nguyễn Tài Cẩn- 1960, Nguyễn Thiện Giáp 1996) .

Trên bình diện âm vị học , mỗi âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc :

- cấu trúc bậc thứ nhất gồm có : 1. Thanh điệu , một đơn vị siêu đoạn tính. Gồm có hai nét khu biệt là âm vực ( cao / thấp hoặc phù / trầm) và âm điệu (bằng / trắc hoặc bình / thướng ). 2. Thanh mẫu ( hay thủy âm , hay phụ âm đầu ) . 3. Vận mẫu ( phần vần của âm tiết).

- Cấu trúc bậc thứ hai : Là những chùm nét khu biệt cấu tạo nên thanh mẫu và vận mẫu .
Thanh mẫu gồm có một chùm nét khu biệt phụ âm tính ( phương thức phát âm và vị trí cấu âm của mỗi phụ âm ). Còn một chùm khác là một cặp nét sóng đôi nguyên âm tính ( tròn môi mạc hóa ) . Chùm thứ nhất bao giờ cũng đặt trước chùm thứ hai . Mặc dù trên thực tế của sự phát âm các yếu tố có ảnh hưởng của tròn môi- mạc hóa bao giờ cũng xuất hiện trước khi phát âm . Chính vì vậy, có thể cụ thể hóa hai chùm nét khu biệt của thủy âm thành hai âm vị : Phụ âm đầu, và âm đệm ( tiền chính âm) .

Như vậy theo cấu trúc hai bậc dạng trên , mô hình âm tiết có vị trí âm đệm nằm về phía phần thanh mẫu ( thủy âm) .

Vận mẫu ( hay vần ) cũng gồm có hai chùm nét khu biệt . Một chùm nét nguyên âm tính gọi là chính âm, và một chùm nét phụ âm tính hay bán phụ âm tính gọi chung là chung âm ( hay âm cuối ). Trong thực tế có những vần chỉ có chính âm và có những vần có cả chính âm và chung âm . Nếu vần có chung âm nó được thể hiện như một phụ âm tắc khép hay một bán phụ âm khép . Trong trường hợp vần có cả chính âm và chng âm còn có một chùm nét có tác dụng khu biệt giữa các vần chặt với các vần lỏng . ( Lỏng là các vần có chính âm dài và chung âm ngắn, còn chặt là các vần có chính âm ngắn và chung âm dài) . Chung âm dài phát âm mạnh hơn chung âm ngắn nhiều , vì nó bắt đầu ngay sát đỉnh âm tiết.

3- Ðặc điểm của âm tiết tiếng Việt

Ðặc điểm cơ bản của âm tiết tiếng Việt là mỗi âm tiết là hình thức biểu đạt của một hình vị . Ví dụ như từ sinh viên bao gồm hai hình vị có vỏ ngữ âm của các âm tiết sinh và viên .

Là vỏ ngữ âm của một hình vị hay một ừ đơn nên mỗi âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng tương ứng với một ý nghĩa nhất định . Chính vì vậy ,việc phá vỡ hay xê dịch vị trí của các âm vị trong một đơn vị âm tiết là điều khó ó thể xảy ra. Nói cách khác cấu trúc của âm tiết tiếng Việt là một cấu trúc chặt chẽ . Mỗi âm vị có một vị trí nhất định trong âm tiết . Dựa trên cơ sở trên phát biểu đặc điểm âm tiết tiếng Việt như sau:

Âm tiết tiếng Việt được chia thành ba phần : Phần phụ âm đầu , phần vần và thanh điệu , thanh điệu luôn nằm trên toàn bộ âm tiết .

Căn cứ vào đăc điểm này người ta vẽ được mô hình của âm tiết .

Chứng minh cho đặc điểm của âm tiết có các căn cứ :

* Căn cứ vào từ láy
* Căn cứ vào kiểu từ iêc hoặc iệc hoá
* Căn cứ vào từ lái
* Căn cứ vào vần của thơ ca

4- Các vị trí trong mô hình âm tiết

* Vị trí số 1: Âm đầu.
* Vị trí số 2: Âm đệm.
* Vị trí số 3: Âm chính .
* Vị trí số 4: Âm cuối.

5- Phân loại âm tiết tiếng Việt

Có hai cơ sở dùng cho việc phân loại âm tiết tiếng Việt .

a- Phân loại dựa vào vị trí số 1 và số 2 : Cách phân loại này cho ta các âm tiết từ nhẹ ---- nặng :

* Âm tiết nhẹ
* Âm tiết hơi nhẹ
* Âm tiết hơi nặng
* Âm tiết nặng .

b- Phân loại dựa vào vị trí số 4 : cách phân loại này cho ta các âm tiết từ mở ------ khép :

* Âm tiết mở .
* Âm tiết hơi mở .
* Âm tiết hơi khép.
* Âm tiết khép.

6- Sự biến hóa ngữ âm

Trong khi nói con người luôn phát ra một chuỗi âm thanh liên tục , vì vậy chúng luôn có sự ảnh hưởng lẫn nhau . Ðặc biệt là những âm tố lân cận được nói trong cùng một âm tiết . Sự ảnh hưởng lẫn nhau này gây ra hiện tượng biến hoá ngữ âm : sự thích nghi, đồng hóa, dị hóa , thêm âm , bớt âm,.... Một số hiện tượng biến hóa ngữ âm thường gặp trong tiếng Việt là :

* Sự thích nghi: Sự thích nghi xuất hiện giữa nguyên âm và phụ âm đứng cạnh nhau. Nếu âm tố sau biến đổi cho giống âm tố trước Ðó là sự thích nghi xuôi. Còn nếu âm tố trước biến đổi cho phù hợp với âm tố sau Ðó là sự thích nghi ngược .

Hiện tượng thích nghi thể hiện rõ rệt trong những vần có nguyên âm dòng trước và dòng sau kết hợp với các phụ âm / K /, / N / .

* Sự đồng hóa : Xuất hiện giữa các âm tố cùng loại ( nguyên âm với nguyên âm, phụ âm với phụ âm , thanh điệu với thanh điệu )

Ví dụ : vỏn vẹn ----- Vẻn vẹn
Muôn vạn ------ muôn vàn

* Sự dị hóa : Xuất hiện giữa những âm tố hay các hiện tượng âm thanh cùng loại , khi một yếu tố biến đổi cho khác với yếu tố kia .

Ví dụ : Nhỏ nhỏ----- Nho nhỏ
Nhạt nhạt ---- Nhàn nhạt

* Sự bớt âm : Là hiện tượng rút gọn để phát âm dễ hơn . Thường xuất hiện trong khẩu ngữ .

Ví dụ : Ba mươi mốt ----- băm mốt
Phải không ------ Phỏng

(Sưu tầm)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top