1. Về nội dung
1.1. Cảm hứng yêu nước
- Là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
- Gắn liền với tư tưởng “ trung quân ái quốc ”
- Biểu hiện: phong phú, đa dạng
+ Âm điệu hào hùng khi đất nước chống ngoại xâm, âm hưởng bi tráng lúc nước mất nhà tan, giọng điệu thiết tha khi đất nước trong cảnh thái bình thịnh trị.
+ Ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc, lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù, tự hào trước chiến công thời đại, truyền thống lịch sử, ca ngợi những người hi sinh vì đất nước, tình yêu thiên nhiên đất nước.
Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi
* Tinh thần yêu nước bộc lộ thông qua luận đề chính nghĩa:
- Tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", tức hành động nhân nghĩa phải đi liền với tình cảm yêu thương nhân dân, bảo vệ nhân dân khỏi những tai họa xâm lăng, đảm bảo cho nhân dân được một cuộc sống an bình, gắn với lòng yêu nước sâu sắc.
- Khẳng định nền độc lập lâu đời của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau như nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục khác biệt, và độc đáo, khéo léo trong việc so sánh các triều đại, khẳng định việc xưng "đế" của dân tộc Đại Việt.
- Khẳng định nước ta "hào kiệt đời nào cũng có", cùng với việc dẫn ra hàng loạt các chiến tích và sự thất bại thảm hại của vương triều phương Bắc khi tiến quân vào xâm lược nước ta trong lịch sử.
=> Thể hiện sức mạnh của một dân tộc tuy lãnh thổ nhỏ bé, nhưng tinh thần yêu nước, sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm thì luôn luôn vĩ đại, sẵn sàng tiêu diệt những kẻ thù to lớn để bảo vệ Tổ quốc từ bao đời.
* Tinh thần yêu nước sâu sắc thể hiện qua việc vạch trần âm mưu đê hèn, tội ác xâm lược của quân Minh:
- Đứng trên lập trường của dân tộc, lòng yêu nước và sự sáng suốt của một nhà chính trị đã chỉ ra âm mưu xâm lược trắng trợn của quân Minh, với danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ" mê hoặc lòng dân để đem quân tràn vào nước ta xâm lược, tàn phá.
- Đứng trên lập trường của một người dân Đại Việt, căm thù giặc Minh và đớn đau trước thực cảnh của dân tộc, để vạch trần tội ác của quân xâm lược khi tràn vào lãnh thổ nước ta, tố cáo hành động tàn ác và chủ trương cai trị vô nhân đạo của kẻ thù
* Tinh thần yêu nước thông qua cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
- Tái hiện hình ảnh chủ soái Lê Lợi, người anh hùng tiêu biểu nhất cho tinh thần yêu nước của cả dân tộc, đại diện cho ý chí quyết tâm dẹp giặc ngoại xâm, là niềm tự hào, hy vọng của cả một dân tộc đang lầm than.
- Tái hiện quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy anh dũng, kiên cường của dân tộc ta, biểu hiện rõ nét nhất, mạnh mẽ nhất cho lòng tự tôn dân tộc, quyết tâm bảo vệ mảnh đất quê hương bằng mọi giá.
=> Thể hiện tinh thần yêu nước chung của nhân dân Đại Việt một cách rất khéo léo và tinh tế.
- Kết thúc trận chiến, chúng ta đã không chọn cách đuổi cùng diệt tận mà lại mở đường cho giặc về nước.
=> Đó cũng là một biểu hiện rất tinh tế của lòng yêu nước, là hành động nhân văn bảo vệ đất nước, nhân dân khiến nhà Minh tạm thời không dám manh động, lại làm việc bất nghĩa, để quân dân ta được nghỉ sức xây dựng lại đất nước.
* Tinh thần yêu nước bộc lộ thông qua lời tổng kết:
- Tinh thần yêu nước lần nữa được khẳng định thông qua việc Nguyễn Trãi tuyên bố nền độc lập chủ quyền của dân tộc bằng giọng văn hùng hồn, sắc sảo, niềm tự hào, kiêu hãnh "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới", mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, khai sinh ra một triều đại thịnh trị lâu dài.
- Rút ra những bài học cho hậu thế về sau, thể hiện sự chu toàn, cũng như tấm lòng lo nghĩ cho muôn dân.
1.2.Cảm hứng nhân đạo
- Là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
- Vừa bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, vừa chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân văn tích cực vốn có của Phật Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo.
+ Truyền thống nhân đạo của người Việt Nam biểu hiện qua lối sống “ thương người như thể thương thân ”, qua những nguyên tắc đạo lý, những thái độ ứng xử tốt đẹp giữa người với người.
+ Tư tưởng nhân văn của Phật Giáo là từ bi, bác ái; của Nho Giáo là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân; của Đạo Giáo là sống thuận theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên.
- Biểu hiện: đa dạng, phong phú
+ Lòng thương người.
+ Lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạo lên con người
+ Khẳng định, đề cao con người về các mặt phẩm chất, tài năng, những khát vọng chân chính: khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do…
+ Đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lý tốt đẹp giữa người với người.
Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều:
* Trân trọng vẻ đẹp của con người
- Vẻ đẹp ngoại hình:
+ Miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái của Thuý Vân:
“ Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
+ Sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ của Thuý Kiều:
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
- Vẻ đẹp đức hạnh:
+ Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
- Vẻ đẹp tài năng: Nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
→ Trong quan niệm của Nguyễn Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần”
⇒ Nói đến cái tài, bên cạnh sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.
* Thương xót cho số phận đau thương của con người
- Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
- Đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bồn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
* Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
- Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
- Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
…
“Cò kè bớt một thêm hai”
* Thấu hiểu ước mơ của con người
- Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán → Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.
1.3. Cảm hứng thế sự
- Biểu hiện rõ nét từ văn học cuối thời Trần (thế kỉ XIV). Khi triều đại nhà Trần suy thoái là lúc văn học hướng tới phản ánh hiện thực xã hội, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân dân.
- Cảm hứng thế sự trở thành nội dung lớn trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những bài thơ viết về nhân tình thế thái.
- Văn học viết về thế sự phát triển trong hai thế kỉ XVIII và XIX. Nhiều tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, hiện thực xã hội đương thời để ghi lại “những điều trông thấy”.
Lê Hữu Trác viết Thượng kinh kí sự, Phạm Đình Hổ viết Vũ trung tùy bút.
- Bức tranh về đời sống nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến, một xã hội thành thị trong thơ Tú Xương. Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực sau này.
1.4. Con người vô ngã và con người hữu ngã
- Vô ngã là một phạm trù đặc trưng của văn học trung đại. Vì đứng trước xã hội, con người chưa tách khỏi môi trường xã hội, còn gắn chặt với cộng đồng, gắn chặt với nước. cá nhân tồn tại trong đất nước, không tồn tại “tự nó và cho nó”. Cá nhân gắn chặt với gia tộc, với tập đoàn”. “Việc sống trong tập đoàn không đè nặng lên nó, ngược lại, đó là ngọn nguồn khoái cảm cho nó…”.
- Con người trung đại thấy mình gắn chặt với cộng đồng là một điều tự nhiên, là vinh dự, là đạo lí nên cảm thấy vui sướng, tự hào. Họ chưa khẳng định rõ bản ngã của mình, một con người vô ngã hoặc chủ yếu là vô ngã. Điều đó chi phối sáng tác, liên quan đến ý nghĩa hình tượng trung tâm trong các tác phẩm văn học.
Bởi vậy, văn chương của Đạo, của Thiền, các vua, các vương hầu… dù nói về triết đạo, thuyết thiền hoặc bày tỏ tấm lòng thương người đượm màu sắc bác ái, từ bi hay vịnh cảnh, đều tập trung nói đến hoài bão to lớn, rõ ràng cho đất nước, cho cộng đồng.
Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI trở đi, do nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị tác động mạnh vào xã hội, sự tự ý thức về cá nhân lớn dần lên, đòi được quyền sống và quyền tự bộc lộ mình dù còn phải dè dặt mặt này, mặt nọ thì thì con người chủ yếu vô ngã chuyển sang con người hữu ngã mặc dù vẫn còn vô ngã. Điều đó làm cơ sở cho văn chương nghệ thuật phát triển lên một bước mới.
Biểu hiện cụ thể đó là sự phê phán gắt gao những thói xấu xa, sự xa hoa, phung phí tiền của mồ hôi của nhân dân trong “Thượng kinh kí sự”, hoặc phê phán thẳng thừng, lên án quyết liệt từ vua quan, không trừ thần thánh, bộ lộ hết nỗi khổ của nhân dân trong “Truyền kì mạn lục”.
Đặc biệt từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình chính trị xã hội có biến động, kéo theo là sự đòi hỏi bức thiết về quyền được sống như một con người… thì con người “hữu ngã” hiện nguyên hình, là con người xương thịt trong cuộc đời. Con người cá nhân lúc này “nó không chỉ là nó, mà còn có đủ sức điển hình cho một hạng người”. Chính sự phát triển mạnh mẽ của tính hữu ngã đã góp phần làm phong phú thêm các thể loại văn học trung đại giai đoạn sau.
2. Nghệ thuật
2.1. Tính quy phạm và phá vỡ tính quy phạm
Tính quy phạm là đặc trưng nghệ thuật nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được định sẵn mà người sáng tác văn học buộc phải tuân theo trong quá trình sáng tác
Tính quy phạm được biểu hiện ở nhiều khía cạnh như: Mục đích sáng tác là phải hướng tới việc giáo huấn đạo đức.Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn trí, văn thơ sáng tác là để giáo huấn đạo đức, văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý trí, bày tỏ lòng mình. Thơ đứng đầu trong các loại văn chương theo quy phạm trung đại. Đó là những gì cao quý, sang trọng ví dụ trong việc miêu tả thiếu nữ Thúy Vân, Thúy Kiều thì nguyễn Du thể hiện công thức ước lệ theo tính chất quy phạm của văn học Trung Đại
=> Vận dụng điển cố cũng là cách thể hiện quy phạm của văn học trung đại khi nêu rõ được đối tượng cụ thể trước mắt hoặc nội tâm nhân vật mà ngòi bút nhà thơ thể hiện. Tính quy phạm tạo nên kiểu ước lệ tượng trưng riêng thiên về công thức trừu tượng nhẹ vefetinhs cá thể cụ thể trong nghệ thuật
Bất quy phạm có nghĩa là không chịu gò mình, tự cởi trói khỏi khuôn khổ, những quy định ràng buộc trong quá trình sáng tác. Trong 10 thế kỷ phát triển, văn học trung đại cũng đã phá bỏ dần tính quy phạm, ước lệ để phát huy cá tính, sáng tạo nội dung và hình thức thể hiện. Khai thác ngôn ngữ dân gian, sáng tạo thể thơ mới, tạo nên khuynh hướng dân chủ văn hóa văn học, thể hiện tinh thần dân tộc, vận dụng thành thạo chữ nôm , thể thơ lục bát, song thất lục bát
Nguyễn Trãi mới thấy sự khác biệt. Với “Quốc âm thi tập” thì nét bất quy phạm lại thể hiện rất rõ. Tát ao, cấy muống, vớt bèo, ươm sen, thuyền lúc nhúc, chợ cá xôn xao, chác cá tươi, quét trúc bước qua suối, gánh nước trăng theo về…là những cảnh quê nghèo trong lành không lấy gì làm cao sang. Tùng, cúc, trúc, mai là khuôn sáo, là công thức chứ dâm bụt, mùng tơi, rồi những con thú như mèo, lợn, trâu có gì là tao nhã.
Mạn thuật bài 6 (Thú ông này)
Lê Thánh Tông còn táo tợn hơn nữa, bất quy phạm thể hiện cao độ. Dường như không vật gì trong nhà, quanh xóm, dưới tay mà không thành đối tượng cho thơ. Tuy đối tượng tầm thường, quê kệch nhưng hình tượng thơ lại ít nhiều, xa gần được nâng lên thành sang trọng. Vào thời mất nước đen tối, những cay bút nho sĩ nhân dân đã ra sức đả kích, chửi bới, phỉ nhổ lũ người theo giặc giết hại đồng bào rồi trèo lên chức nọ tước kia, giàu sang nổi tiếng: “Dám hỏi: hàm ân người lớp trước Hay là một lũ những hoang quân?” Hay: “Hăm hở trẻ con múa lại hát Đứa thì làm tướng đứa làm yêu” Những viên quan khâm sai, đề đốc Lê Văn Trinh, quan án, quan đề…đều là những con người lòng dạ chúng có khác gì con rận, con cóc, con muỗi, con chó chết trôi…Tất cả những hình tượng trên đều đã bỏ xa những gì được gọi là quy phạm.
2.2. Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị
Văn học trung đại có đề tài hướng tới cái cao cả, trang trọng, hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Tuy nhiên, ở những chặng phát triển cuối, văn học Việt Nam cũng đã có những nỗ lực không nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình dân, gần gũi với đời sống của con người Việt Nam.
Tính trang nhã cũng là đặc điểm của văn học trung đại thể hiện ở đề tài, chủ đề hướng tới cao cả, trang trọng hơn cái đười thường, bình dị: ở hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ hơn vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc. Văn học gắn liền với hiện thực, đưa cái trang trọng tao nhã về gần gũi với đời sống hiện thực, tự nhiên và bình dị.
2.3. Tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn hóa nước ngoài
- Văn học trung đại Việt Nam phát triển theo quy luật vừa tiếp thu vừa dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài, chủ yếu là văn học Trung Quốc.
- Dùng chữ Hán để sáng tác, tiếp thu thể cổ phong, thể Đưòng luật trong văn vần, thể hịch, cáo, chiếu, biểu, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi trong văn xuôi... sử dụng những điển cố, thi liệu Hán văn.
- Quá trình dân tộc hóa đã sáng tạo ra chữ Nôm trên cơ sở những thành tố của chữ Hán để ghi âm, biểu đạt nghĩa tiếng Việt và dùng chữ Nôm trong sáng tác; Việt hóa thể thơ Đường luật thành thơ Nôm Đường luật, thất ngôn xen lục ngôn, sáng tạo các thể thơ như lục bát, song thất lục bát, các thể ngâm khúc, truyện thơ, hát nói; sử dụng lời ăn tiếng nói, cách diễn đạt của nhân dân trong sáng tác.
- Văn học trung đại Việt Nam phát triển trong sự gắn bó với vận mệnh đất nước, nhân dân. Cùng với văn học dân gian, văn học trung đại góp phần làm nên diện mạo hoàn chỉnh và đa dạng của văn học dân tộc.
VD: Tác phẩm văn học Trung Quốc đi vào những tác phẩm lớn của văn học viết của người Việt, sau đó các nhà văn, nhà thơ đã được tiếp thu những điển tích này. Thí dụ, Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân (đời Thanh, Trung Quốc). Tác phẩm này đã vào Việt Nam khoảng những năm 60, 70 của thế kỷ XVIII(3). Dựa theo nó, Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều với 3.254 câu thơ lục bát.
2.4. Tính song ngữ trong các thể loại văn học
- Nguyên nhân: Thời trung đại do bị bắt buộc, tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu rộng của tiếng Hán, chữ Hán, văn hóa Hán. Tiếng Hán “trở thành một thứ tiếng nằm trong quỹ đạo của quy luật âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt và văn học chữ Hán của các nhà văn Việt Nam là một bộ phận của văn học Việt Nam”. Hai thứ tiếng, hai bộ phận văn học đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội.
- Tình hình đó tạo nên hiện tượng song ngữ trong văn học. Tính song ngữ tạo thành đặc điểm văn học của nhiều thành phần và không chỉ thể hiện trong dòng văn học chữ Hán và Nôm tách biệt, mà còn thể hiện ở sự xâm nhập, pha trộn của văn học Hán và Nôm.
1.1. Cảm hứng yêu nước
- Là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
- Gắn liền với tư tưởng “ trung quân ái quốc ”
- Biểu hiện: phong phú, đa dạng
+ Âm điệu hào hùng khi đất nước chống ngoại xâm, âm hưởng bi tráng lúc nước mất nhà tan, giọng điệu thiết tha khi đất nước trong cảnh thái bình thịnh trị.
+ Ý thức độc lập tự chủ, tự cường, tự hào dân tộc, lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù, tự hào trước chiến công thời đại, truyền thống lịch sử, ca ngợi những người hi sinh vì đất nước, tình yêu thiên nhiên đất nước.
Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi
* Tinh thần yêu nước bộc lộ thông qua luận đề chính nghĩa:
- Tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", tức hành động nhân nghĩa phải đi liền với tình cảm yêu thương nhân dân, bảo vệ nhân dân khỏi những tai họa xâm lăng, đảm bảo cho nhân dân được một cuộc sống an bình, gắn với lòng yêu nước sâu sắc.
- Khẳng định nền độc lập lâu đời của dân tộc thông qua nhiều khía cạnh khác nhau như nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục khác biệt, và độc đáo, khéo léo trong việc so sánh các triều đại, khẳng định việc xưng "đế" của dân tộc Đại Việt.
- Khẳng định nước ta "hào kiệt đời nào cũng có", cùng với việc dẫn ra hàng loạt các chiến tích và sự thất bại thảm hại của vương triều phương Bắc khi tiến quân vào xâm lược nước ta trong lịch sử.
=> Thể hiện sức mạnh của một dân tộc tuy lãnh thổ nhỏ bé, nhưng tinh thần yêu nước, sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm thì luôn luôn vĩ đại, sẵn sàng tiêu diệt những kẻ thù to lớn để bảo vệ Tổ quốc từ bao đời.
* Tinh thần yêu nước sâu sắc thể hiện qua việc vạch trần âm mưu đê hèn, tội ác xâm lược của quân Minh:
- Đứng trên lập trường của dân tộc, lòng yêu nước và sự sáng suốt của một nhà chính trị đã chỉ ra âm mưu xâm lược trắng trợn của quân Minh, với danh nghĩa "phù Trần diệt Hồ" mê hoặc lòng dân để đem quân tràn vào nước ta xâm lược, tàn phá.
- Đứng trên lập trường của một người dân Đại Việt, căm thù giặc Minh và đớn đau trước thực cảnh của dân tộc, để vạch trần tội ác của quân xâm lược khi tràn vào lãnh thổ nước ta, tố cáo hành động tàn ác và chủ trương cai trị vô nhân đạo của kẻ thù
* Tinh thần yêu nước thông qua cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
- Tái hiện hình ảnh chủ soái Lê Lợi, người anh hùng tiêu biểu nhất cho tinh thần yêu nước của cả dân tộc, đại diện cho ý chí quyết tâm dẹp giặc ngoại xâm, là niềm tự hào, hy vọng của cả một dân tộc đang lầm than.
- Tái hiện quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy anh dũng, kiên cường của dân tộc ta, biểu hiện rõ nét nhất, mạnh mẽ nhất cho lòng tự tôn dân tộc, quyết tâm bảo vệ mảnh đất quê hương bằng mọi giá.
=> Thể hiện tinh thần yêu nước chung của nhân dân Đại Việt một cách rất khéo léo và tinh tế.
- Kết thúc trận chiến, chúng ta đã không chọn cách đuổi cùng diệt tận mà lại mở đường cho giặc về nước.
=> Đó cũng là một biểu hiện rất tinh tế của lòng yêu nước, là hành động nhân văn bảo vệ đất nước, nhân dân khiến nhà Minh tạm thời không dám manh động, lại làm việc bất nghĩa, để quân dân ta được nghỉ sức xây dựng lại đất nước.
* Tinh thần yêu nước bộc lộ thông qua lời tổng kết:
- Tinh thần yêu nước lần nữa được khẳng định thông qua việc Nguyễn Trãi tuyên bố nền độc lập chủ quyền của dân tộc bằng giọng văn hùng hồn, sắc sảo, niềm tự hào, kiêu hãnh "Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới", mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, khai sinh ra một triều đại thịnh trị lâu dài.
- Rút ra những bài học cho hậu thế về sau, thể hiện sự chu toàn, cũng như tấm lòng lo nghĩ cho muôn dân.
1.2.Cảm hứng nhân đạo
- Là nội dung lớn, xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
- Vừa bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người Việt Nam, từ cội nguồn văn học dân gian, vừa chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân văn tích cực vốn có của Phật Giáo, Nho Giáo, Đạo Giáo.
+ Truyền thống nhân đạo của người Việt Nam biểu hiện qua lối sống “ thương người như thể thương thân ”, qua những nguyên tắc đạo lý, những thái độ ứng xử tốt đẹp giữa người với người.
+ Tư tưởng nhân văn của Phật Giáo là từ bi, bác ái; của Nho Giáo là học thuyết nhân nghĩa, tư tưởng thân dân; của Đạo Giáo là sống thuận theo tự nhiên, hoà hợp với tự nhiên.
- Biểu hiện: đa dạng, phong phú
+ Lòng thương người.
+ Lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạo lên con người
+ Khẳng định, đề cao con người về các mặt phẩm chất, tài năng, những khát vọng chân chính: khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do…
+ Đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lý tốt đẹp giữa người với người.
Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều:
* Trân trọng vẻ đẹp của con người
- Vẻ đẹp ngoại hình:
+ Miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái của Thuý Vân:
“ Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
+ Sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ của Thuý Kiều:
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
- Vẻ đẹp đức hạnh:
+ Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
- Vẻ đẹp tài năng: Nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
→ Trong quan niệm của Nguyễn Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần”
⇒ Nói đến cái tài, bên cạnh sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.
* Thương xót cho số phận đau thương của con người
- Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
- Đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bồn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
* Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
- Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày rầu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
- Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
…
“Cò kè bớt một thêm hai”
* Thấu hiểu ước mơ của con người
- Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán → Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.
1.3. Cảm hứng thế sự
- Biểu hiện rõ nét từ văn học cuối thời Trần (thế kỉ XIV). Khi triều đại nhà Trần suy thoái là lúc văn học hướng tới phản ánh hiện thực xã hội, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân dân.
- Cảm hứng thế sự trở thành nội dung lớn trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những bài thơ viết về nhân tình thế thái.
- Văn học viết về thế sự phát triển trong hai thế kỉ XVIII và XIX. Nhiều tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, hiện thực xã hội đương thời để ghi lại “những điều trông thấy”.
Lê Hữu Trác viết Thượng kinh kí sự, Phạm Đình Hổ viết Vũ trung tùy bút.
- Bức tranh về đời sống nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến, một xã hội thành thị trong thơ Tú Xương. Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực sau này.
1.4. Con người vô ngã và con người hữu ngã
- Vô ngã là một phạm trù đặc trưng của văn học trung đại. Vì đứng trước xã hội, con người chưa tách khỏi môi trường xã hội, còn gắn chặt với cộng đồng, gắn chặt với nước. cá nhân tồn tại trong đất nước, không tồn tại “tự nó và cho nó”. Cá nhân gắn chặt với gia tộc, với tập đoàn”. “Việc sống trong tập đoàn không đè nặng lên nó, ngược lại, đó là ngọn nguồn khoái cảm cho nó…”.
- Con người trung đại thấy mình gắn chặt với cộng đồng là một điều tự nhiên, là vinh dự, là đạo lí nên cảm thấy vui sướng, tự hào. Họ chưa khẳng định rõ bản ngã của mình, một con người vô ngã hoặc chủ yếu là vô ngã. Điều đó chi phối sáng tác, liên quan đến ý nghĩa hình tượng trung tâm trong các tác phẩm văn học.
Bởi vậy, văn chương của Đạo, của Thiền, các vua, các vương hầu… dù nói về triết đạo, thuyết thiền hoặc bày tỏ tấm lòng thương người đượm màu sắc bác ái, từ bi hay vịnh cảnh, đều tập trung nói đến hoài bão to lớn, rõ ràng cho đất nước, cho cộng đồng.
Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI trở đi, do nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị tác động mạnh vào xã hội, sự tự ý thức về cá nhân lớn dần lên, đòi được quyền sống và quyền tự bộc lộ mình dù còn phải dè dặt mặt này, mặt nọ thì thì con người chủ yếu vô ngã chuyển sang con người hữu ngã mặc dù vẫn còn vô ngã. Điều đó làm cơ sở cho văn chương nghệ thuật phát triển lên một bước mới.
Biểu hiện cụ thể đó là sự phê phán gắt gao những thói xấu xa, sự xa hoa, phung phí tiền của mồ hôi của nhân dân trong “Thượng kinh kí sự”, hoặc phê phán thẳng thừng, lên án quyết liệt từ vua quan, không trừ thần thánh, bộ lộ hết nỗi khổ của nhân dân trong “Truyền kì mạn lục”.
Đặc biệt từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, tình hình chính trị xã hội có biến động, kéo theo là sự đòi hỏi bức thiết về quyền được sống như một con người… thì con người “hữu ngã” hiện nguyên hình, là con người xương thịt trong cuộc đời. Con người cá nhân lúc này “nó không chỉ là nó, mà còn có đủ sức điển hình cho một hạng người”. Chính sự phát triển mạnh mẽ của tính hữu ngã đã góp phần làm phong phú thêm các thể loại văn học trung đại giai đoạn sau.
2. Nghệ thuật
2.1. Tính quy phạm và phá vỡ tính quy phạm
Tính quy phạm là đặc trưng nghệ thuật nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được định sẵn mà người sáng tác văn học buộc phải tuân theo trong quá trình sáng tác
Tính quy phạm được biểu hiện ở nhiều khía cạnh như: Mục đích sáng tác là phải hướng tới việc giáo huấn đạo đức.Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn trí, văn thơ sáng tác là để giáo huấn đạo đức, văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý trí, bày tỏ lòng mình. Thơ đứng đầu trong các loại văn chương theo quy phạm trung đại. Đó là những gì cao quý, sang trọng ví dụ trong việc miêu tả thiếu nữ Thúy Vân, Thúy Kiều thì nguyễn Du thể hiện công thức ước lệ theo tính chất quy phạm của văn học Trung Đại
“Văn xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
=> Vận dụng điển cố cũng là cách thể hiện quy phạm của văn học trung đại khi nêu rõ được đối tượng cụ thể trước mắt hoặc nội tâm nhân vật mà ngòi bút nhà thơ thể hiện. Tính quy phạm tạo nên kiểu ước lệ tượng trưng riêng thiên về công thức trừu tượng nhẹ vefetinhs cá thể cụ thể trong nghệ thuật
Bất quy phạm có nghĩa là không chịu gò mình, tự cởi trói khỏi khuôn khổ, những quy định ràng buộc trong quá trình sáng tác. Trong 10 thế kỷ phát triển, văn học trung đại cũng đã phá bỏ dần tính quy phạm, ước lệ để phát huy cá tính, sáng tạo nội dung và hình thức thể hiện. Khai thác ngôn ngữ dân gian, sáng tạo thể thơ mới, tạo nên khuynh hướng dân chủ văn hóa văn học, thể hiện tinh thần dân tộc, vận dụng thành thạo chữ nôm , thể thơ lục bát, song thất lục bát
Nguyễn Trãi mới thấy sự khác biệt. Với “Quốc âm thi tập” thì nét bất quy phạm lại thể hiện rất rõ. Tát ao, cấy muống, vớt bèo, ươm sen, thuyền lúc nhúc, chợ cá xôn xao, chác cá tươi, quét trúc bước qua suối, gánh nước trăng theo về…là những cảnh quê nghèo trong lành không lấy gì làm cao sang. Tùng, cúc, trúc, mai là khuôn sáo, là công thức chứ dâm bụt, mùng tơi, rồi những con thú như mèo, lợn, trâu có gì là tao nhã.
“Sang cùng khó bởi chưng trời,
Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi.
Tả lòng thanh, vị núc nác,
Vun đất ải, luống mồng tơi.
Liêm cần tiết cả, tua hằng nắm,
Trung hiếu niềm xưa, mựa nỡ dời.”
“Ðường thông thuở chống một cày,
Sự thế bao nhiêu vẫn đã khuây.
Bả cái trúc hòng phân suối,
Quét con am để chứa mây”
Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi.
Tả lòng thanh, vị núc nác,
Vun đất ải, luống mồng tơi.
Liêm cần tiết cả, tua hằng nắm,
Trung hiếu niềm xưa, mựa nỡ dời.”
“Ðường thông thuở chống một cày,
Sự thế bao nhiêu vẫn đã khuây.
Bả cái trúc hòng phân suối,
Quét con am để chứa mây”
Mạn thuật bài 6 (Thú ông này)
Lê Thánh Tông còn táo tợn hơn nữa, bất quy phạm thể hiện cao độ. Dường như không vật gì trong nhà, quanh xóm, dưới tay mà không thành đối tượng cho thơ. Tuy đối tượng tầm thường, quê kệch nhưng hình tượng thơ lại ít nhiều, xa gần được nâng lên thành sang trọng. Vào thời mất nước đen tối, những cay bút nho sĩ nhân dân đã ra sức đả kích, chửi bới, phỉ nhổ lũ người theo giặc giết hại đồng bào rồi trèo lên chức nọ tước kia, giàu sang nổi tiếng: “Dám hỏi: hàm ân người lớp trước Hay là một lũ những hoang quân?” Hay: “Hăm hở trẻ con múa lại hát Đứa thì làm tướng đứa làm yêu” Những viên quan khâm sai, đề đốc Lê Văn Trinh, quan án, quan đề…đều là những con người lòng dạ chúng có khác gì con rận, con cóc, con muỗi, con chó chết trôi…Tất cả những hình tượng trên đều đã bỏ xa những gì được gọi là quy phạm.
2.2. Khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị
Văn học trung đại có đề tài hướng tới cái cao cả, trang trọng, hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Tuy nhiên, ở những chặng phát triển cuối, văn học Việt Nam cũng đã có những nỗ lực không nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình dân, gần gũi với đời sống của con người Việt Nam.
Tính trang nhã cũng là đặc điểm của văn học trung đại thể hiện ở đề tài, chủ đề hướng tới cao cả, trang trọng hơn cái đười thường, bình dị: ở hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ hơn vẻ đẹp đơn sơ, mộc mạc. Văn học gắn liền với hiện thực, đưa cái trang trọng tao nhã về gần gũi với đời sống hiện thực, tự nhiên và bình dị.
2.3. Tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn hóa nước ngoài
- Văn học trung đại Việt Nam phát triển theo quy luật vừa tiếp thu vừa dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài, chủ yếu là văn học Trung Quốc.
- Dùng chữ Hán để sáng tác, tiếp thu thể cổ phong, thể Đưòng luật trong văn vần, thể hịch, cáo, chiếu, biểu, truyện kí, tiểu thuyết chương hồi trong văn xuôi... sử dụng những điển cố, thi liệu Hán văn.
- Quá trình dân tộc hóa đã sáng tạo ra chữ Nôm trên cơ sở những thành tố của chữ Hán để ghi âm, biểu đạt nghĩa tiếng Việt và dùng chữ Nôm trong sáng tác; Việt hóa thể thơ Đường luật thành thơ Nôm Đường luật, thất ngôn xen lục ngôn, sáng tạo các thể thơ như lục bát, song thất lục bát, các thể ngâm khúc, truyện thơ, hát nói; sử dụng lời ăn tiếng nói, cách diễn đạt của nhân dân trong sáng tác.
- Văn học trung đại Việt Nam phát triển trong sự gắn bó với vận mệnh đất nước, nhân dân. Cùng với văn học dân gian, văn học trung đại góp phần làm nên diện mạo hoàn chỉnh và đa dạng của văn học dân tộc.
VD: Tác phẩm văn học Trung Quốc đi vào những tác phẩm lớn của văn học viết của người Việt, sau đó các nhà văn, nhà thơ đã được tiếp thu những điển tích này. Thí dụ, Kim Vân Kiều truyện là tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân (đời Thanh, Trung Quốc). Tác phẩm này đã vào Việt Nam khoảng những năm 60, 70 của thế kỷ XVIII(3). Dựa theo nó, Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều với 3.254 câu thơ lục bát.
2.4. Tính song ngữ trong các thể loại văn học
- Nguyên nhân: Thời trung đại do bị bắt buộc, tiếng Việt chịu ảnh hưởng sâu rộng của tiếng Hán, chữ Hán, văn hóa Hán. Tiếng Hán “trở thành một thứ tiếng nằm trong quỹ đạo của quy luật âm và ngữ âm lịch sử tiếng Việt và văn học chữ Hán của các nhà văn Việt Nam là một bộ phận của văn học Việt Nam”. Hai thứ tiếng, hai bộ phận văn học đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội.
- Tình hình đó tạo nên hiện tượng song ngữ trong văn học. Tính song ngữ tạo thành đặc điểm văn học của nhiều thành phần và không chỉ thể hiện trong dòng văn học chữ Hán và Nôm tách biệt, mà còn thể hiện ở sự xâm nhập, pha trộn của văn học Hán và Nôm.