ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÔN NGỮ VĂN HỌC
BÀI LÀM
Kết thúc bài Một thời đại trong thi ca, đánh giá thành tựu của phong trào Thơ mới, Hoài Thanh viết: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt, họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông, họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tâm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.
Nhắc đến tiếng mẹ đẻ, Lưu Quang Vũ có những vần thơ tha thiết:
Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý, thâm trầm, rực rỡ, vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim Người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.
Nhờ ngôn ngữ tiếng Việt mà ta nghe được:
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời…
(Tiếng Việt)
Như vậy, người sáng tạo lẫn nhà phê bình văn học đều quan tâm đến một yếu tố quyết định cho sự thành bại của giá trị tác phẩm. “Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học” (M. Gorki). Thơ, truyện ngắn, bút kí, tiểu thuyết… có được đều là do ngôn ngữ nghệ thuật cấu thành. Không có ngôn ngữ nghệ thuật thì không có văn bản văn học. Dùng ngôn ngữ làm chất liệu, văn học mang nhiều đặc điểm khác biệt với các bộ môn khoa học khác.
Văn học là thế giới của sáng tạo. Cuộc sống văn học phản ánh là cuộc sống được nhà văn tái tạo cái nhìn chủ quan của mình bằng ngôn ngữ văn chương. Ngôn ngữ của văn học phải có những đặc điểm mà ngôn ngữ thông thường không có như tính biểu cảm, tính hình tượng, tính hàm súc… Văn học giáo dục tâm hồn con người bằng quá trình tự nhận thức, bằng cách tác động vào tình cảm và phải trải qua thời gian dài để thấm sâu dần. Do đó, ngôn ngữ của văn học phải giàu hình tượng, giàu tính biểu cảm và để tránh sự diễn đạt nôm na, dông dài, nó phải gợi nên cảm xúc sâu sắc nhờ tính hàm súc, chính xác.
Ngôn ngữ văn chương chỉ có ở văn học. Các môn khoa học khác ít cần dùng đến chất văn chương khi sử dụng ngôn ngữ. Để viết nên một định lí, một công thức, một bản thống kê… người ta không cần đến tính biểu cảm, tính hình tượng, hoặc tính cá thể hóa trong ngôn ngữ.
Nói đến ngôn ngữ văn chương, ta nghĩ ngay đến ngôn ngữ trong thơ. Nó tiêu biểu cho phong cách văn chương với những cách dùng từ, đặt câu rất lạ mà ngôn ngữ thông thường không có được. Mỗi câu mỗi chữ đều hướng tới mức độ cao nhất của cảm xúc. Đọc thơ Xuân Diệu, ta thấy sự sáng tạo trong ngôn ngữ văn chương, trong lối sử dụng ngữ âm khác với thông thường.
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Tác giả thể hiện cái rét mướt, run rẩy, cái cảm giác lẻ loi, đơn độc nhờ lối diễn tả lạ, giấu chủ từ trong câu, nhờ vị trí đứng sát bên nhau của bốn phụ âm “r”. Không nói gió mà người ta thấy gió, không nói rõ là cành cây mà người ta đã biết cành cây, đó là cách nói hàm súc trong thơ. Chưa biết cái gì làm run rẩy, chưa biết cái gì đang mong manh mà người ta nghĩ ngay đến cái lạnh lẽo, cái ảm đạm của ngày thu xứ Bắc, đến cái lo sợ, cuống quýt của Xuân Diệu sợ mùa xuân đi mất, đó là điều mà tác giả muốn nói. Và đó cũng là cái mà ngôn ngữ văn chương đã tạo ra cho ta cảm xúc khi đọc Đây mùa thu tới. Hình ảnh chiếc lá run rẩy rung rinh, những cành cây khô gầy xương mỏng manh cứ như đung đưa ngay trước mắt.
Ngôn ngữ văn chương không chỉ chú trọng đến cảm xúc, đến tình cảm mà còn chú ý tính hệ thống và tính chính xác. Cảm xúc là trạng thái rất tinh tế trong tâm hồn. Từ ngữ sử dụng trong văn chương một cách có chủ ý và thống nhất sẽ làm tăng thêm vẻ tinh tế đó.
Miêu tả Từ Hải và Sở Khanh trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã xây dựng nên hai mô hình ngôn ngữ có vẻ tương tự nhau. Nhưng bên cạnh các từ lặp lại ấy, các từ khác có ý nghĩa khác nhau. Từ Hải hiện ra đầy tự tin của một đấng trượng phu:
Lắng nghe, vừa ý, gật đầu
Cười rằng: Tri kỉ trước sau mấy người.
Vẫn nghe, gật đầu nhưng Sở Khanh lại hiện nguyên hình là gã huênh hoang, rỗng tuếch, một tên lừa đảo:
Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu
Ta đây nào phải ai đâu mà rằng.
Nhờ tính hệ thống của việc lặp từ, lặp cách miêu tả, ta phát hiện con người giả của Sở Khanh và con người anh hùng thật của Từ Hải cùng nhiều điều thú vị khác mà tác giả không trực tiếp nói. Tính chính xác của ngôn ngữ văn chương có sức thể hiện rất cao tâm lí tình cảm nhân vật. Trong buổi trao duyên giữa Kiều và Vân, Nguyễn Du đã dùng từ cậy:
Cậy em, em có chịu lời
Cậy là thái độ của người chịu ơn và phải mang ơn, chịu lại mang vẻ mệnh lệnh, uy quyền của một người chị. Thái độ của Kiều trong từ cậy mà không phải là nhờ. Chịu mà không phải là nhận. Tính chính xác của từ đạt đến mức hoàn toàn, không thể thay thế được từ nào hay hơn!
“Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ được sử dụng một cách nghệ thuật. Các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, chiết tự, đảo ngữ, nói nhấn, nói giảm… được huy động tối đa. Bằng sự thay đổi, phối hợp các thanh điệu, câu văn trở nên sống động, nó thở bằng nhịp thở của thời đại, của lịch sử sôi sục:
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị
(Tuyên ngôn Độc lập)
Truyện Kiều không chỉ làm xúc động người đọc ở cốt truyện, tình cảm của nhân vật trong từng câu chữ mà trong cái âm điệu của nó cũng làm người đọc xúc động. Thông cảm cho nhân vật người phụ nữ, đọc những lời Nguyễn Du viết về họ, ta không khỏi bồi hồi:
Ngẩn ngơ khi trở về già
Chồng con đâu tá biết là cậy ai
Đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ta cảm thấy ngậm ngùi. Cảm xúc bật lên từ hoàn cảnh, nhưng nếu không có các từ ngẩn ngơ, bóng xế dật dờ thì có lẽ cảm xúc đến người đọc không được trọn vẹn.
Có thấy được bóng chiều dật dờ trước ngõ, có thấy cảnh quạnh hiu một thân lủi thủi của người phụ nữ khi trở về già ta mới có cảm xúc với những lời văn. Tình hình tượng trong ngôn ngữ nghệ thuật chứa đựng tính sáng tạo của nhà văn trong cách nhìn hiện thực. Hình tượng trong thơ, trong văn rất cụ thể, rất sắc nét, đến mức gây ấn tượng mạnh nhất và người ta như thấy, như có thể sờ mó được nó.
Cách dùng từ trong thơ – trong ngôn ngữ nghệ thuật – giàu hình tượng nhờ những cách nói lạ và sáng tạo của nhà thơ. Trong bài thơ Thề non nước của Tản Đà, Thế Lữ đã chữa một câu thơ từ “Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày” thành “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Tuy đã rất sáng tạo trong hình ảnh “suối tuôn dòng lệ” nhưng cách nói của Tản Đà vẫn chưa đạt hiệu quả cao về mặt hình tượng. Cách nói “suối tuôn” vẫn gần với cách nói thông thường, nhưng “suối khô dòng lệ” thì lại là chuyện khác. Hình ảnh này hoàn toàn chỉ có trong ngôn ngữ văn chương. Chỉ có ngôn ngữ văn chương mới tạo ra những hình ảnh độc đáo như thế! Trong ngay bản thân tựa đề Sống mòn của Nam Cao, nó cũng gợi ra bao hình ảnh chán chường, cùng quẫn của hình tượng kiếp “sống mòn”, sống mà đang chết, chưa sống mà đã chết của một đời thường vô nghĩa. Trong ngôn ngữ thông thường không có cách nói ấy và đó là cách nói riêng của Nam Cao.
Nói đến cách nói riêng của tác giả, ta đề cập đến tính cá thể trong ngôn ngữ văn chương. Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ mang phong cách của nhà văn. Văn Nam Cao vốn là văn lạnh. Các nhân vật của ông thường được gọi là hắn, thị, nhờ vậy nhân vật bị đẩy xa, nhờ đó Nam Cao khảo sát, miêu tả nhân vật của mình khách quan hơn. Nam Cao lại chuyên về phân tích tâm lí, văn ông xuất hiện dày đặc những từ, những câu chỉ trạng thái, cảm giác. Các từ bâng khuâng, mơ hồ, già nua, bệnh tật… với cách nói của các câu theo lôgic nhân quả, đã làm nổi bật phong cách của Nam Cao.
Cách đặt tựa đề Tờ hoa cũng mang đậm phong cách Nguyễn Tuân, một người luôn say mê cái đẹp. Với tài hoa, uyên bác, ông khai thác thời gian của người. Quá trình lao động, chiến đấu của con người đối với Nguyễn Tuân được gọi là Tờ hoa!
Các câu chữ xô bồ được ném hỗn loạn lên mặt giấy, viết theo thần hứng, theo cảm xúc và đầy nước mắt là phong cách của Nguyên Hồng. Nhà văn đã gửi gắm vào các con chữ bằng cảm xúc dạt dào của mình.
Hình tượng cũng là sự cá thể hóa. Trong Truyện Kiều, các mùa thu không giống nhau; Thúy Vân, Thúy Kiều đều là hai mĩ nhân nhưng mỗi người một vẻ.
Ngôn ngữ nghệ thuật phải là ngôn ngữ hàm súc, ý tại ngôn ngoại. Dù chỉ cô đúc, ngắn gọn trong bốn hoặc tám cây nhưng những bài thơ tứ tuyệt hoặc bát cú Đường Luật hay vẫn được xem là những tác phẩm có tính hàm súc, tính đa nghĩa trong ngôn ngữ thơ.
Hai câu thực trong Thu vịnh của Nguyễn Khuyến:
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Đâu chỉ là tả thực, trông như chỉ là phán đoán về hiện thực: Trông chốn nước biếc ấy ta trông như tầng khói phủ. Để mặc là thái độ hờ hững không quan tâm. Vịnh mùa thu mà lại thờ ơ với cảnh. Vậy thì những từ ngữ trong hai câu thơ của Yên Đổ chắc sẽ nói nhiều tâm sự hơn nữa.
Ở tác phẩm Thuốc của Lỗ Tấn, đằng sau cái im lặng của mọi người trong quán trà, đằng sau cái câu Điên thật rồi! được lặp lại ở ba đối tượng khác nhau là thái độ đánh giá Hạ Du của nhân dân Trung Hoa, từ già chí trẻ. Những điều đó, tác giả đã nhắn gửi tới người đọc không trực tiếp mà thông qua cách sắp xếp các lời nói, các hình ảnh trong tác phẩm.
Có cảm nhận được cả những điều không có trong câu chữ, văn bản đó, mới hiểu hết được cái hay của ngôn ngữ văn chương.
Xét riêng trong văn bản, trong câu thơ không phải lúc nào ngôn ngữ văn chương cũng mang hết những đặc điểm đã nêu trên. Chỉ cần một hay hai đặc điểm trên thì ngôn ngữ là ngôn ngữ văn chương. Để hướng tới cái đẹp của một tác phẩm, người sáng tác phải huy động các đặc tính của ngôn ngữ để đưa ngôn ngữ văn chương vào trong tác phẩm của mình.
Văn bản cấu thành từ ngôn ngữ, mà ngôn ngữ nghệ thuật sẽ gây nên hiệu ứng ở người đọc. Tư tưởng của nhà văn, cảm hứng nghệ thuật của tác giả cứ thế được truyền tải bằng ngôn ngữ. Những chức năng to lớn của văn học được xây dựng và thể hiện từ cấu trúc ngôn ngữ. Dùng chất liệu ngôn ngữ để xây dựng tác phẩm, nhà văn luôn phải tự giác biết mình đang tận dụng tối đa cái chất văn chương trong ngôn ngữ. Vì thế học tập trau dồi và sử dụng thành công ngôn ngữ trong tác phẩm có lẽ là điều kiện trước hết, điều kiện kiên quyết để sáng tạo văn chương.