rubi_mos2002
New member
- Xu
- 0
Tham khảo : “ Healing pain , attachment, loss and grief therapy “ của Nini Leick và Marianne Davidsen Nielsen.
Cuốn sách “ Existential psychotherapy” của Yalom được dựa trên 4 khái niệm : cái chết ( death ), tự do ( freedom ), sự cô lập ( isolation ) và sự vô nghĩa ( meaninglessness ). Chúng đại diện cho 4 xung đột cơ bản mà mỗi người phải đương đầu trong cuộc sống của anh ấy bởi vì anh ta được trao cho cuộc sống, sự tồn tại ( existence ). Ông xem sự loạn thần kinh ( neurosis ) và loạn chức năng ( malfunction ) như là một hệ quả của sự mất khả năng của cá nhân trong việc hiểu và đương đầu với một ( hoặc nhiều hơn ) xung đột trong 4 xung đột đó. Chúng tôi cho rằng một trong những lý do tại sao quá trình chữa lành nỗi đau ( grief work ) đòi hỏi khắt khe và rất đáng sợ là vì người đang đau khổ phải đương đầu với cả 4 xung đột cùng một lúc.
Chúng ta hiểu về mặt lý trí rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên, hầu hết mọi người cần phải có một sự kiện từ bên ngoài để biến điều này này thực tế cảm xúc. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hành xử như thể mình là người bất khả xâm phạm. Tất nhiên điều này là có lợi vì chúng ta không thể thực hiện chức năng của mình trong cuộc sống hằng ngày nếu chúng ta luôn luôn nhận thức được là mình có thể chết bất cứ lúc nào.
Phần lớn chúng ta cũng khẳng định là chúng ta đánh giá cao sự tự do, nhưng chúng ta lại sắp xếp cuộc sống của mình trong những ranh giới chật hẹp.
Chúng ta cũng biết rằng mình được sinh ra trong sự cô độc và chúng ta sẽ chết một mình. Dù chúng ta có gần gũi với những người họ hàng và người khác đến đâu thì chúng ta vẫn là những tồn tại cô độc. Đây là 1 thực tế đau đớn, và phần lớn chúng ta tránh đương đầu với nó càng lâu càng tốt. Thật đáng sợ khi phải đương đầu với sự cô lập hiện sinh ( existential isolation )
Khái niệm thứ tư của Yalom là sự vô nghĩa ( meaninglessness). Cuộc sống không có 1 ý nghĩa đơn giản mà tất cả mọi người cùng chia sẻ. Mỗi người phải đối mặt với một cảm giác trống rỗng và vô nghĩa trong cuộc đời họ và nảy sinh một giải pháp mang tính cá nhân.
Mất một người thân hoặc mất đi sức khỏe bản thân cũng giống như đánh mất một phần bản thân. Cá nhân đó không thể duy trì được ảo tưởng về sự bất khả xâm phạm hoặc tin vào một đấng cứu thế quyền năng. Điều này rất đáng sợ. Nhiều người hỏi “ Tại sao lại là tôi ? Tại sao điều này xảy đến với tôi ?” Trong nỗ lực nhằm tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi của họ, họ đương đầu với cái chết của chính họ và sự vô nghĩa rõ ràng của cuộc sống. Họ phải tìm được một giải pháp cá nhân để có thể dấn thân vào cuộc sống một lần nữa. Đây là một việc khó khăn, và nó phải được thực hiện tại thời điểm khi người đang đau khổ có rất ít năng lượngđể đầu tư. Đó là sự nghịch lý khi cuộc sống đặt ra yêu cầu nặng nề nhất lên cá nhân tại thời điểm mà anh ấy cảm thấy kiệt sức nhất và bị áp đảo.
Người đang đau khổ cần những người bạn và người thân biết thông cảm xung quanh để hỗ trợ anh ta, nhưng trong tình huống tối ưu nhất thì người đau khổ cảm thấy tại một số thời điểm , sự cô lập hiện sinh của anh ta có lẽ mạnh hơn bao giờ hết. Anh ấy chính là người đã mất đi “ một phần của bản thân “ chứ không phải bạn bè hoặc gia đình anh ta. Chính anh ấy là người trải nghiệm sự ngập tràn những cảm xúc đau khổ, tức giận, tội lỗi, xấu hổ chứ không phải những người xung quanh anh ta. Anh ta biết rằng mình phải chịu đựng quá trình này, anh ấy vẫn có hy vọng nhận được sự hỗ trợ, nhưng sau cùng vẫn là sự cô độc.
Và nếu tất cả những sự thử thách và đau khổ này là không đủ, người đau khổ cuối cùng phải đối mặt với sự tự do. Vì anh ấy không còn có thể tin vào sự bất khả xâm phạm của chính anh ta hoặc vào một đấng cứu thế và phải đối mặt với sự tách biệt của anh ta khỏi những người khác thì anh ấy phải hiểu anh ấy là người cuối cùng chịu trách nhiệm cho chính cuộc sống của anh ta và cho những lựa chọn anh ấy thực hiện.
Những sự đương đầu với những tình huống hiện sinh là đau đớn, nhưng cuối cùng lại chữa lành – Yalom.
Cuốn sách “ Existential psychotherapy” của Yalom được dựa trên 4 khái niệm : cái chết ( death ), tự do ( freedom ), sự cô lập ( isolation ) và sự vô nghĩa ( meaninglessness ). Chúng đại diện cho 4 xung đột cơ bản mà mỗi người phải đương đầu trong cuộc sống của anh ấy bởi vì anh ta được trao cho cuộc sống, sự tồn tại ( existence ). Ông xem sự loạn thần kinh ( neurosis ) và loạn chức năng ( malfunction ) như là một hệ quả của sự mất khả năng của cá nhân trong việc hiểu và đương đầu với một ( hoặc nhiều hơn ) xung đột trong 4 xung đột đó. Chúng tôi cho rằng một trong những lý do tại sao quá trình chữa lành nỗi đau ( grief work ) đòi hỏi khắt khe và rất đáng sợ là vì người đang đau khổ phải đương đầu với cả 4 xung đột cùng một lúc.
Chúng ta hiểu về mặt lý trí rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên, hầu hết mọi người cần phải có một sự kiện từ bên ngoài để biến điều này này thực tế cảm xúc. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hành xử như thể mình là người bất khả xâm phạm. Tất nhiên điều này là có lợi vì chúng ta không thể thực hiện chức năng của mình trong cuộc sống hằng ngày nếu chúng ta luôn luôn nhận thức được là mình có thể chết bất cứ lúc nào.
Phần lớn chúng ta cũng khẳng định là chúng ta đánh giá cao sự tự do, nhưng chúng ta lại sắp xếp cuộc sống của mình trong những ranh giới chật hẹp.
Chúng ta cũng biết rằng mình được sinh ra trong sự cô độc và chúng ta sẽ chết một mình. Dù chúng ta có gần gũi với những người họ hàng và người khác đến đâu thì chúng ta vẫn là những tồn tại cô độc. Đây là 1 thực tế đau đớn, và phần lớn chúng ta tránh đương đầu với nó càng lâu càng tốt. Thật đáng sợ khi phải đương đầu với sự cô lập hiện sinh ( existential isolation )
Khái niệm thứ tư của Yalom là sự vô nghĩa ( meaninglessness). Cuộc sống không có 1 ý nghĩa đơn giản mà tất cả mọi người cùng chia sẻ. Mỗi người phải đối mặt với một cảm giác trống rỗng và vô nghĩa trong cuộc đời họ và nảy sinh một giải pháp mang tính cá nhân.
Mất một người thân hoặc mất đi sức khỏe bản thân cũng giống như đánh mất một phần bản thân. Cá nhân đó không thể duy trì được ảo tưởng về sự bất khả xâm phạm hoặc tin vào một đấng cứu thế quyền năng. Điều này rất đáng sợ. Nhiều người hỏi “ Tại sao lại là tôi ? Tại sao điều này xảy đến với tôi ?” Trong nỗ lực nhằm tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi của họ, họ đương đầu với cái chết của chính họ và sự vô nghĩa rõ ràng của cuộc sống. Họ phải tìm được một giải pháp cá nhân để có thể dấn thân vào cuộc sống một lần nữa. Đây là một việc khó khăn, và nó phải được thực hiện tại thời điểm khi người đang đau khổ có rất ít năng lượngđể đầu tư. Đó là sự nghịch lý khi cuộc sống đặt ra yêu cầu nặng nề nhất lên cá nhân tại thời điểm mà anh ấy cảm thấy kiệt sức nhất và bị áp đảo.
Người đang đau khổ cần những người bạn và người thân biết thông cảm xung quanh để hỗ trợ anh ta, nhưng trong tình huống tối ưu nhất thì người đau khổ cảm thấy tại một số thời điểm , sự cô lập hiện sinh của anh ta có lẽ mạnh hơn bao giờ hết. Anh ấy chính là người đã mất đi “ một phần của bản thân “ chứ không phải bạn bè hoặc gia đình anh ta. Chính anh ấy là người trải nghiệm sự ngập tràn những cảm xúc đau khổ, tức giận, tội lỗi, xấu hổ chứ không phải những người xung quanh anh ta. Anh ta biết rằng mình phải chịu đựng quá trình này, anh ấy vẫn có hy vọng nhận được sự hỗ trợ, nhưng sau cùng vẫn là sự cô độc.
Và nếu tất cả những sự thử thách và đau khổ này là không đủ, người đau khổ cuối cùng phải đối mặt với sự tự do. Vì anh ấy không còn có thể tin vào sự bất khả xâm phạm của chính anh ta hoặc vào một đấng cứu thế và phải đối mặt với sự tách biệt của anh ta khỏi những người khác thì anh ấy phải hiểu anh ấy là người cuối cùng chịu trách nhiệm cho chính cuộc sống của anh ta và cho những lựa chọn anh ấy thực hiện.
Những sự đương đầu với những tình huống hiện sinh là đau đớn, nhưng cuối cùng lại chữa lành – Yalom.