1728 bài thơ trong 1 bài thơ

thich van hoc

Moderator
Thành viên BQT
1728 bài thơ trong 1 bài thơ

Nguyễn Đức Dân


Thơ đọc thuận nghịch

1. Đọc xuôi và đọc ngược: một đặc điểm kỳ thú của tiếng Việt

Có những bài thơ có thể đọc theo trật tự ngược. Điều này liên quan đến những đặc điểm rất riêng biệt của tiếng Việt. Mời các bạn quan sát câu (1) dưới đây:

(1) Cấm không được câu cá.

+ Câu trên có 5 tiếng là 5 từ. Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, mỗi tiếng là một từ, gọi là từ đơn. Dùng từ để chỉ những khái niệm. Âm thanh tạo ra các tiếng khác nhau thì có hạn mà khái niệm thì vô hạn, mỗi ngày lại thêm nhiều khái niệm mới. Ấy vậy nên, một mặt tiếng Việt rất nhiều từ đồng âm - những từ có âm giống nhau nhưng nghĩa lại khác nhau. Mặt khác, người Việt phải tạo ra những từ ghép, thường là ghép đôi, do những từ đơn hợp lại mà thành để diễn đạt những khái niệm mới.

+ Từ được viết trong từ điển thế nào thì trong lời nói, câu văn vẫn y như vậy. Do vậy mà tiếng Việt dùng trật tự từ làm phương tiện ngữ pháp quan trọng nhất để gắn kết các từ lại với nhau tạo nên ý nghĩa của từ, của câu. Kết hợp theo trật tự không được tạo ra lệnh cấm, còn theo trật tự được không lại thành một lời hỏi. “Không được câu cá” là lệnh cấm, nhưng “Cá câu được không?” lại là lời hỏi. Câu (1) là một lệnh cấm, nhưng nếu đọc theo trật tự ngược lại sẽ thành câu (2) như dưới đây sẽ thành một lệnh cho phép:

(2) Cá câu được không cấm.

+ Nhiều từ ghép khi đảo hai tiếng vẫn tạo ra một từ ghép đồng nghĩa như những từ đo đắn, dặt dìu, hiu hắt, hững hờ, lả lơi, sụt sùi…đã được Nguyễn Du dùng xuôi dùng ngược trong Truyện Kiều. Khi đọc ngược, các tiếng có thể rời nhau ra để gắn kết với tiếng khác. Trong câu (1), từ không gắn với được còn trong câu (2) nó lại gắn với cấm.

Từ những đặc điểm trên đây, người ta có thể tạo ra những câu dài 7,8 từ rồi ghép lại với nhau mà đọc xuôi hay ngược đều có nghĩa.

- Tím bầm rêu mọc đá tròn xoay/Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng.

- Đây ánh sao trôi lặng vắng hồ/Trắng mây xanh nước cảnh Sơn Đồ.

- Hương ngát lúa mùa thuận nắng mưa/Bổng trầm ai hát tiếng cao đưa.

- Ngàn mây vạc lướt xiêu xiêu/Triều dâng vang tiếng gác chèo sương tan.

Khả năng đọc ngược những chuỗi từ dài là một đặc sắc tiếng Việt mà ta không tìm thấy ở rất nhiều ngôn ngữ khác như Anh, Pháp, Nga, Đức, Ba Lan, Hàn, Nhật…

2. Thơ có hai cách đọc thuận và nghịch

Từ khả năng đọc ngược một loạt câu đứng kề nhau đã hình thành những cách chơi chữ qua những bài thơ đọc thuận nghịch. Ở đó, đọc xuôi từ đầu xuống cuối hoặc đọc ngược từ cuối lên đầu đều thành những bài thơ.

Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ Đi thuyền:

“Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông

Cỏ mọc bờ xa liễu bóng trông

Chèo vững thiếp qua vời khổ hải

Chí bền chàng đến vận trung không

Theo lần nguyệt xế mây mờ mịt

Họa đáp thông reo trống não nùng

Neo thả biết đâu nơi định trước

Bèo trôi nước giợn sóng mênh mông[2]”

Bạn đọc ngược từ cuối bài trở lên, sẽ được một bài thơ mới:

“Mênh mông sóng giợn nước trôi bèo

Trước định nơi đâu biết thả neo

Nùng não trống reo thông đáp họa

Mịt mờ mây xế nguyệt lần theo

Không trung vận đến chàng bền chí

Hải khổ vời qua thiếp vững chèo

Trông liễu bóng xa bờ mọc cỏ

Mông mênh sóng giợn nước trôi bèo”

Rất khó sáng tác những bài thơ đọc thuận nghịch vì phải viết được những câu thơ đọc xuôi, đọc ngược đều thành câu, mà lại đúng luật bằng trắc, đối nhau, đúng vần và trọn nghĩa.

Cho tới cuối thế kỷ 20, chỉ thấy những bài thơ thất ngôn bát cú đọc thuận nghịch. Từ năm 1998, Phạm Đan Quế đã thử sáng tác thơ lục bát và song thất lục bát đọc thuận nghịch.

Trong bài Trăng thu Tây Hồ chúng ta đọc ngược theo từng khổ:

Chờ trăng gió lộng Hồ Tây

Đầy vơi thơ thẩn khách say trăng mờ

Tây Hồ lộng gió trăng chờ

Mờ trăng say khách thẩn thơ vơi đầy

Sang thu ửng ráng trời mây

Bay trầm vàng ánh tháng ngày quê hương

Mây trời ráng ửng thu sang

Hương quê ngày tháng ánh vàng trầm bay.


1728 cách đọc 1 bài vịnh Kiều

Nguyễn Đức Dân

1. Vua Thiệu Trị người đầu tiên sáng tác thơ có trên trăm cách đọc

Hai bài thơ chữ Hán thất ngôn bát cú Vũ trung sơn thủy và Phước viên văn hội lương dạ mạn ngâm của vị vua thi sĩ này được trình bày vào hai bức khảm xà cừ dưới dạng hình tròn bát quái. Năm 1994 ông Nguyễn Tân Phong tìm ra 64 cách đọc cho mỗi bài. Sau đó, năm 1998 giáo sư Nguyễn Tài Cẩn tìm ra được 128 cách đọc cho bài Vũ trung sơn thuỷ .

2. Bài vịnh Kiều có 1728 cách đọc

Ông Phạm Đan Quế – người giữ 3 kỷ lục Việt Nam về Truyện Kiều – đã sáng tác bài thất ngôn bát cú Kiều nương cửa Phật nói về tâm sự của Thuý Kiều khi đi tu bên bờ sông Tiền Đường như sau:

1. Ngần ngại đổ chuông chiều nguyện cầu

2. Sắc hương vàng nắng ngả rơi mau

3. Vần xoay gió bão đầy năm tháng

4. Lỗi nhịp Kiều đời trắng bể dâu

5. Nhân ái cảnh thiền sai ước thệ
6. Mộng tình Kim ấp ủ còn đâu
7. Dần xa dõi bóng Từ oan khuất
8. Nhân nghĩa Phật tiên chốn nhiệm màu

Từ bài trên, có thể tạo ra rất nhiều bài thơ khác gần như cùng nội dung vì những lẽ dưới đây:

Về phương diện hình thức

- Trong bài có rất nhiều từ ngữ ghép đôi đẳng lập khiến mỗi dòng thơ đều có thể đọc xuôi đọc ngược một cách thoải mái tự nhiên. Ví như câu 6 “Mộng tình Kim ấp ủ còn đâu” đọc ngược sẽ thành “Đâu còn ủ ấp Kim tình mộng’ thì cũng tự nhiên. Đọc ngược cả bài thơ trên sẽ là:

8. Màu nhiệm chốn tiên Phật nghĩa nhân

7. Khuất oan Từ bóng dõi xa dần

6. Đâu còn ủ ấp Kim tình mộng

5. Thệ ước sai thiền cảnh ái nhân

4. Dâu bể trắng đời Kiều nhịp lỗi

3. Tháng năm đầy bão gió xoay vần

2. Mau rơi ngả nắng vàng hương sắc

1. Cầu nguyện chiều chuông đổ ngại ngần

Chúng ta chú ý là những chữ cuối câu 1, 2, 4, 6, 8 đều cùng vần (cầu, mau, dâu, đâu, màu), những chữ đầu câu 1, 3, 5, 7, 8 cũng cùng vần (ngần, vần, nhân, dần, nhân) khiến ta dễ dàng thay đổi trật tự các câu làm thành một bài thơ thất ngôn bát cú mới.

Mặt khác, có thể bớt đi hai chữ đầu (khi đọc xuôi) hoặc hai chữ cuối (khi đọc ngược) để từ bài thơ thất ngôn thành bài thơ ngũ ngôn.

Cắt hai chữ đầu mỗi dòng sẽ được bài thơ ngũ ngôn:

1. Đổ chuông chiều nguyện cầu

2. Vàng nắng ngả rơi mau

3. Gió bão đầy năm tháng

4. Kiều đời trắng bể dâu

5. Cảnh thiền sai ước thệ
6. Kim ấp ủ còn đâu
7. Dõi bóng Từ oan khuất
8. Phật tiên chốn nhiệm màu

Cắt hai chữ cuối rồi đọc ngược sẽ thành bài thơ ngũ ngôn đọc ngược:

8. Chốn tiên Phật nghĩa nhân

7. Từ bóng dõi xa dần

6. Ủ ấp Kim tình mộng

5. Sai thiền cảnh ái nhân

4. Trắng đời Kiều nhịp lỗi

3. Đầy bão gió xoay vần

2. Ngả nắng vàng hương sắc

1. Chiều chuông đổ ngại ngần

Mỗi câu thơ đều có thể tồn tại độc lập và cùng là tâm sự của Kiều khi tu hành ở Am Vân Thủy nên có thể đổi chỗ các câu thơ mà bài thơ vẫn chấp nhận được. Bằng cách đổi chỗ các dòng thơ khi đọc xuôi hay đọc ngược, hoặc bỏ bớt 2 chữ đầu của mỗi câu, theo tác giả bài thơ này có ít nhất 1.728 cách đọc thất ngôn bát cú, trong đó có ít nhất 32 bài đúng niêm luật thơ Đường.

Thơ đọc xuôi

Bắt đầu bằng hai câu 1-2, 1-6, hoặc 8-2,… chúng ta có thể làm thành các bài 12345678, 12745638, 12785634... 16345278, 16385274, 16745238, 16785234... hoặc 82315674, 82345671, 82715634, 82745631... Chẳng hạn, bạn có thể “sáng tác” bài thơ đọc xuôi theo trật tự 12385674:

1. Ngần ngại đổ chuông chiều nguyện cầu

2. Sắc hương vàng nắng ngả rơi mau

3. Vần xoay gió bão đầy năm tháng

8. Nhân nghĩa Phật tiên chốn nhiệm màu

5. Nhân ái cảnh thiền sai ước thệ
6. Mộng tình Kim ấp ủ còn đâu
7. Dần xa dõi bóng Từ oan khuất
4. Lỗi nhịp Kiều đời trắng bể dâu

Thơ đọc ngược

Cũng vậy, bạn có thể tạo ra các bài thơ mở đầu bằng hai dòng 83, 87, 57, 53… Với trật tự 83214765 chúng ta có bài:

8. Màu nhiệm chốn tiên Phật nghĩa nhân

3. Tháng năm đầy bão gió xoay vần

2. Mau rơi ngả nắng vàng hương sắc

1. Cầu nguyện chiều chuông đổ ngại ngần

4. Dâu bể trắng đời Kiều nhịp lỗi

7. Khuất oan Từ bóng dõi xa dần

6. Đâu còn ủ ấp Kim tình mộng

5. Thệ ước sai thiền cảnh ái nhân

Về phương diện nội dung

Ba chữ giữa trong các dòng thơ nhắc tới ba nhân vật trung tâm Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải cùng các điểm căn bản trong đời tu hành của Kiều (chuông chiều, vàng nắng, gió bão, cảnh thiền, Phật tiên) nên khi cắt bớt hai chữ đầu hoặc cuối, những điều này vẫn còn lại khiến bài thơ ngũ ngôn vẫn giữ được ý nghĩa cơ bản như bài thất ngôn. Hệ quả là tất cả 1.728 bài gần như có cùng một nội dung.

Ngoài 3 câu nói về Thuý Kiều (câu 4), Kim Trọng (câu 6) và Từ Hải (câu 7), 5 câu còn lại đều là tâm trạng của Kiều khi nương cửa Phật. Trong bài lại có bốn cặp câu lần lượt nói về “Kiều cầu nguyện” (câu 1,2); “Kiều ngẫm lại cuộc đời mình đầy bão tố” (câu 3,4); “Kiều tưởng nhớ mối tình lỗi hẹn với Kim Trọng” (câu 5,6); “Kiều dõi theo hình bóng Từ Hải chết oan vì mình” (câu 7,8). Khi đổi chỗ các dòng thơ, những điều này vẫn hiện nguyên đầy đủ.

Ngoại trừ bão và dõi, tất cả các chữ còn lại đều trích từ Truyện Kiều nên bài thơ nào cũng mang đậm âm hưởng Truyện Kiều.

Mời các bạn dạo chơi trong vườn thơ đọc xuôi ngược của Kiều nương cửa Phật.
................................................................................

[1] Phần thứ hai của bài này đã đăng trong báo Xuân Công an Giáp Ngọ (2014)

[2] Bài này và những bài thơ thuận nghịch dưới đây chúng tôi dẫn theo quyển “Bài thơ vịnh Kiều độc đáo và cách làm thơ thuận nghịch độc ” , nxb Thanh Niên 2013, của Phạm Đan Quế.

Nguồn: https://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top