Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
ÔN THI VĂN THPT
10 đề ôn luyện thi tốt nghiệp thpt
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="keobi" data-source="post: 161649" data-attributes="member: 304161"><p>ĐỀ SỐ 3</p><p> </p><p>· PHẦN BẮT BUỘC (5,0 điểm)</p><p> </p><p>Câu 1 (2,0 điếm): Nêu ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.</p><p> </p><p>Câu 2 (3,0 điểm): Bác Hồ từng nói “Dân ta phải biết sử ta” nhưng theo thống kê gần đây của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì thí sinh thi môn Lịch sử trong các kì thỉ Tốt nghiệp cũng như Đại học có điểm kém rất cao.</p><p> </p><p>Thử viết một bài viết ngắn (không quá 300 từ) trình bày mộ số nguyên nhân của thực trạng trên.</p><p> </p><p>· PHẤN TỰ CHỌN (5,0 điểm)</p><p> </p><p>Câu 3a (5,0 đỉếm): Cảm nhận của anh. chị vc đoạn thơ sau dây trong hài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:</p><p> </p><p>Ta về, mình có nhớ ta </p><p>Ta về, ta nhớ những hoa cùng người</p><p>Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi </p><p>Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng</p><p>Ngày xuân mơ nở trắng rừng</p><p>Nhớ cô em gái hái măng một mình</p><p>Ve kêu rừng phách đổ vàng</p><p>Nhớ cô em gái hái măng một mình.</p><p> Rừng thu trăng rọi hòa hình </p><p> Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung</p><p> (Theo Ngừ vãn 12, tập một, sách giáo khoa chương trình chuẩn. NXB</p><p>Giáo dục, trang 111)</p><p> </p><p>Câu 3b (5,0 điếm): Phân (ích ỉâm trạng của tác giả khi nhớ vé micn lây Bấc Bộ và những người đổng dội irong đoạn "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". (Tây Tiến[SUB]%[/SUB] Quang Dũng)</p><p> </p><p>GỢI Ý LÀM BÀI</p><p> </p><p>· PHẦN BẮT BUỘC (5,0 điếm)</p><p> </p><p>Câu 1 (2,0 điếm): Thí sinh có thế trình bày theo nhiều cách nhưng phải nêu được những ý cơ bản sau đây:</p><p> </p><p>I. Chiếc thuyển ngoài xa: Là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không .gian sinh sống của gia đình làng chài, ở đó, họ có một lũ con và cuộc sống khó khăn đói kém đã làm con người thay đổi lâm tính. Tất cá nhửng điều đổ, nếu nhìn từ xa, ỏ ngoài xa thì sẽ không thấy được (1 điểm).</p><p> </p><p>II. Chiếc thuyền ngoài xa còn là sự đơn dộc của con thuyền nghệ thuật trên dại dương cuộc sống, sự đơn độc của con người trong cuộc đời, chính sự đơn độc. thiếu chia sẻ ỉà nguyên nhân của sự bế lắc và ỉầm lạc (1 điểm).</p><p> </p><p> </p><p>Câu 2 (3,0 điếm): Thí sinh viết một bài văn (có hạn định số từ) theo kiểu văn bản nghị luận (bàn) và chỉ bàn về nguồn nhân của thực trạng HS (thi vào các trường Đại học hoặc thi Tốt nghiệp bộ môn Lịch sử có điểm kém rất cao. Sau đây là mội số gợi ý của người ra đề (mang tính tham khảo):</p><p> </p><p>III. Thực trạng cửa việc dạy và học môn Lịch sử hiện nay ở trường phổ thông (0.5 điểm).</p><p> </p><p>IV. Nêu một số nguyên nhân chính: (2 điểm).</p><p> </p><p> </p><p>+ Do quan niệm chạy theo một số ngành “hàng hiệu" của đại bộ phận phụ huynh và học sinh khi quyết định thi vào các trường ĐH & CĐ.</p><p> </p><p>+ Không cố đủ kinh phí để tổ chức những buổi học Lịch sử mang tính thực tế bằng cách đi tham quan, dã ngoại... nên tiết học Lịch sử thi cử sinh động, gây chán nản ở học sinh.</p><p> </p><p>+ Thời lượng dành cho môn Lịch sử ở trường PT không như mà khối lượng kiến thức chì đổ xộ (bao gồm Lịch sử Việt Nam và Lịch sử thế giới) nên GV lịch sử chỉ truyền đạt cho HS thco kiểu “cưỡi ngựa xem hoa"...</p><p> </p><p>(Mỗi ý HS cố thể đưa vài ví dụ cụ thể)</p><p> </p><p>'Đưa ra một số nhận xét, đánh giá về thực trạng trên (0.5 điếm)</p><p></p><p></p><p>· PHẦN TỰ CHỌN (5,0 điểm)</p><p> </p><p>Câu 3a (5,0 điểm)</p><p> </p><p>a) Yêu cầu về kĩ năng:</p><p> </p><p>Biết cách làm bài văn nghị luận và vận dụng khả năng đọc hiểu để phát bicu càm nhận về đoạn thơ trữ tình. Kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt tốt, không mắc lỏi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.</p><p> </p><p>b) Yêu cầu về kiến thức:</p><p> </p><p>Trên cơ sỏ những hiểu biết về bài Ihơ Việt Bác của nhà thơ Tố Hữu, thí sinh trình bày những cảm nhận của mình về đoạn (hơ mà đề ra.</p><p> </p><p>V. về nội dung:</p><p> </p><p>+ Cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc vẻ đẹp đa dạng trong thời gian, không gian khác nhau.</p><p> </p><p>+ Con người Việt Bắc gắn bổ hài hòa với thiên nhiên thơ mộng.</p><p> </p><p>VI. Về nghệ thuật:</p><p> </p><p>+ Hình ảnh đấỉ xứng, đan cài, hòa hợp.</p><p> </p><p>+ Giọng điệu ngọt ngào, sâu lắng, thiết tha,...</p><p> </p><p>Câu 3b (5,0 điểm)</p><p> </p><p>Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. (Tây Tiến, Quang Dũng)</p><p> </p><p>Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc, hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi...</p><p> </p><p>Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bốc từng câu từng chữ mà thâm vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đẵ thực sự chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi đầu kháng chiến - với tâm tư in bổng trong dáng hình sông núi:</p><p> </p><p>Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!</p><p>Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi </p><p> ....</p><p>Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi..."</p><p> </p><p>Cảnh ấy cùng là tình. Tình cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa - những chi tiết thường gặp trong thơ cổ - nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷ, thăm thẳm, heo hút giữa cái bềng bềnh sương khói chơi vơi, được tác giả phác họa bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ờ trong không gian rừng núi mà còn tạo ra một không gian - tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà - ngút ngát chí lang hồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chú! Hóm hỉnh ở hình súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt - song chất hào hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến - anh hộ đội Cụ Hổ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thắm, là sợi khói cơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến nhừng trái tim trai trẻ...</p><p> </p><p>Bài thơ nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người “ra đi bảo tồn sông núi" đã lấn át cái bi lụy buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng tinh thần “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, người chiến sì đâ nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn gấp vạn lần những gian khổ, hi sinh?</p><p> </p><p>Bài thơ không cường điệu hóa cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khỏe khoắn của toàn bài có nhừng từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào. khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập không khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong hài thơ theo quan điểm xã hội học Ihicn cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái đẹp. Cái đẹp của bài thơ viết ra lừ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ.</p><p> </p><p>Nhà thơ Trần Lê Văn. người hạn thân, đã từng sáng tác nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng lác bài thơ Tây Tiến như sau:</p><p> </p><p>“Đoàn quân Tây Tiến, sau mội thời gian hoại động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. R3T xa đơn vị cũ chưa hao lâu, ngồi ờ Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh viết hài thơ Tây Tiến". Muốn hiểu được hài thơ Tây Tiến, trước hối cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. </p><p> </p><p>Khoàng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một chín vị thành lập vào dầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để hảo vệ biên giới Lào - Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rổi vòng vể qua miên tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ. Những người</p><p>17</p><p></p><p></p><p>lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Trong đó có cà những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ. ốm dau không có thuốc men. tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến ỉranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.</p><p> </p><p>Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ.</p><p> </p><p>Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà âm áp. Hình ảnh những cô gái những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hy sinh tất cả cho lý tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.</p><p> </p><p>Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưỏng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nổi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:</p><p> </p><p>Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!</p><p>Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi </p><p>Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi</p><p>Mường Lát hoa về trong đêm hơi</p><p> </p><p>Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,... liên tiếp </p><p>xuất hiện ở những câu thơ sau:</p><p> </p><p>Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm </p><p>Heo hút cồn mây súng ngửi trời </p><p>Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống </p><p>Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi</p><p> </p><p>Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ. Quang Dũng đẵ vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt dộng của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đây giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật chính xác sự hiểm trò, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đồi Tây Bắc. Hai chữ "ngửi trời” được dùng rấl hổn nhiên và cùng rất láo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa cổ chấl linh nghịch của người lính. Núi caoiưỏng chừng chạm mây, mây nđi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn ntiỉ cao urông chừng như đang đi ưên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Cố thế hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mù sương rừng mây núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.</p><p> </p><p>Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác già sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.</p><p> </p><p>Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người:</p><p> </p><p>Chiều chiều oai linh thú gầm thét</p><p> Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.</p><p> </p><p>Vậy là cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm. cọp dữ... Những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giàu trí tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình của thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc.</p><p> </p><p>Đoạn thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:</p><p> </p><p>Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói </p><p>Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.</p><p> </p><p>Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần hên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan cái mệt mỏi trên khuôn mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lại. Hai câu thơ này tạo nên mội cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tư thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="keobi, post: 161649, member: 304161"] ĐỀ SỐ 3 · PHẦN BẮT BUỘC (5,0 điểm) Câu 1 (2,0 điếm): Nêu ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Câu 2 (3,0 điểm): Bác Hồ từng nói “Dân ta phải biết sử ta” nhưng theo thống kê gần đây của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì thí sinh thi môn Lịch sử trong các kì thỉ Tốt nghiệp cũng như Đại học có điểm kém rất cao. Thử viết một bài viết ngắn (không quá 300 từ) trình bày mộ số nguyên nhân của thực trạng trên. · PHẤN TỰ CHỌN (5,0 điểm) Câu 3a (5,0 đỉếm): Cảm nhận của anh. chị vc đoạn thơ sau dây trong hài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu: Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ cô em gái hái măng một mình Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. Rừng thu trăng rọi hòa hình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung (Theo Ngừ vãn 12, tập một, sách giáo khoa chương trình chuẩn. NXB Giáo dục, trang 111) Câu 3b (5,0 điếm): Phân (ích ỉâm trạng của tác giả khi nhớ vé micn lây Bấc Bộ và những người đổng dội irong đoạn "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". (Tây Tiến[SUB]%[/SUB] Quang Dũng) GỢI Ý LÀM BÀI · PHẦN BẮT BUỘC (5,0 điếm) Câu 1 (2,0 điếm): Thí sinh có thế trình bày theo nhiều cách nhưng phải nêu được những ý cơ bản sau đây: I. Chiếc thuyển ngoài xa: Là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không .gian sinh sống của gia đình làng chài, ở đó, họ có một lũ con và cuộc sống khó khăn đói kém đã làm con người thay đổi lâm tính. Tất cá nhửng điều đổ, nếu nhìn từ xa, ỏ ngoài xa thì sẽ không thấy được (1 điểm). II. Chiếc thuyền ngoài xa còn là sự đơn dộc của con thuyền nghệ thuật trên dại dương cuộc sống, sự đơn độc của con người trong cuộc đời, chính sự đơn độc. thiếu chia sẻ ỉà nguyên nhân của sự bế lắc và ỉầm lạc (1 điểm). Câu 2 (3,0 điếm): Thí sinh viết một bài văn (có hạn định số từ) theo kiểu văn bản nghị luận (bàn) và chỉ bàn về nguồn nhân của thực trạng HS (thi vào các trường Đại học hoặc thi Tốt nghiệp bộ môn Lịch sử có điểm kém rất cao. Sau đây là mội số gợi ý của người ra đề (mang tính tham khảo): III. Thực trạng cửa việc dạy và học môn Lịch sử hiện nay ở trường phổ thông (0.5 điểm). IV. Nêu một số nguyên nhân chính: (2 điểm). + Do quan niệm chạy theo một số ngành “hàng hiệu" của đại bộ phận phụ huynh và học sinh khi quyết định thi vào các trường ĐH & CĐ. + Không cố đủ kinh phí để tổ chức những buổi học Lịch sử mang tính thực tế bằng cách đi tham quan, dã ngoại... nên tiết học Lịch sử thi cử sinh động, gây chán nản ở học sinh. + Thời lượng dành cho môn Lịch sử ở trường PT không như mà khối lượng kiến thức chì đổ xộ (bao gồm Lịch sử Việt Nam và Lịch sử thế giới) nên GV lịch sử chỉ truyền đạt cho HS thco kiểu “cưỡi ngựa xem hoa"... (Mỗi ý HS cố thể đưa vài ví dụ cụ thể) 'Đưa ra một số nhận xét, đánh giá về thực trạng trên (0.5 điếm) · PHẦN TỰ CHỌN (5,0 điểm) Câu 3a (5,0 điểm) a) Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài văn nghị luận và vận dụng khả năng đọc hiểu để phát bicu càm nhận về đoạn thơ trữ tình. Kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt tốt, không mắc lỏi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. b) Yêu cầu về kiến thức: Trên cơ sỏ những hiểu biết về bài Ihơ Việt Bác của nhà thơ Tố Hữu, thí sinh trình bày những cảm nhận của mình về đoạn (hơ mà đề ra. V. về nội dung: + Cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc vẻ đẹp đa dạng trong thời gian, không gian khác nhau. + Con người Việt Bắc gắn bổ hài hòa với thiên nhiên thơ mộng. VI. Về nghệ thuật: + Hình ảnh đấỉ xứng, đan cài, hòa hợp. + Giọng điệu ngọt ngào, sâu lắng, thiết tha,... Câu 3b (5,0 điểm) Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. (Tây Tiến, Quang Dũng) Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc, hào hoa: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi... Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bốc từng câu từng chữ mà thâm vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đẵ thực sự chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi đầu kháng chiến - với tâm tư in bổng trong dáng hình sông núi: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi .... Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi..." Cảnh ấy cùng là tình. Tình cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa - những chi tiết thường gặp trong thơ cổ - nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn quân mỏi đi trong cái khúc khuỷ, thăm thẳm, heo hút giữa cái bềng bềnh sương khói chơi vơi, được tác giả phác họa bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không dừng lại ờ trong không gian rừng núi mà còn tạo ra một không gian - tâm trạng của một hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà - ngút ngát chí lang hồng của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chú! Hóm hỉnh ở hình súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt - song chất hào hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính Tây Tiến - anh hộ đội Cụ Hổ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa gợi nỗi nhớ nhà sâu thắm, là sợi khói cơm quyện chặt tình người, một bóng hình đong đưa làm xao xuyến nhừng trái tim trai trẻ... Bài thơ nói đến hy sinh, mất mát, gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người “ra đi bảo tồn sông núi" đã lấn át cái bi lụy buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng khí muôn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng tinh thần “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, người chiến sì đâ nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn gấp vạn lần những gian khổ, hi sinh? Bài thơ không cường điệu hóa cảm xúc dẫu trong âm điệu gân guốc, khỏe khoắn của toàn bài có nhừng từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào. khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ lẫm tràn ngập không khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong hài thơ theo quan điểm xã hội học Ihicn cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái đẹp. Cái đẹp của bài thơ viết ra lừ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế hệ. Nhà thơ Trần Lê Văn. người hạn thân, đã từng sáng tác nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng lác bài thơ Tây Tiến như sau: “Đoàn quân Tây Tiến, sau mội thời gian hoại động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. R3T xa đơn vị cũ chưa hao lâu, ngồi ờ Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh viết hài thơ Tây Tiến". Muốn hiểu được hài thơ Tây Tiến, trước hối cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoàng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một chín vị thành lập vào dầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để hảo vệ biên giới Lào - Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rổi vòng vể qua miên tây Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng dày, có nhiều thú dữ. Những người 17 lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Trong đó có cà những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ. ốm dau không có thuốc men. tử vong vì sốt rét nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến ỉranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn. Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ. Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà âm áp. Hình ảnh những cô gái những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hy sinh tất cả cho lý tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc. Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưỏng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nổi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,... liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ. Quang Dũng đẵ vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt dộng của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đây giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật chính xác sự hiểm trò, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đồi Tây Bắc. Hai chữ "ngửi trời” được dùng rấl hổn nhiên và cùng rất láo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa cổ chấl linh nghịch của người lính. Núi caoiưỏng chừng chạm mây, mây nđi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn ntiỉ cao urông chừng như đang đi ưên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Cố thế hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mù sương rừng mây núi thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác già sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ. Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người: Chiều chiều oai linh thú gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. Vậy là cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm. cọp dữ... Những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giàu trí tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình của thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ: Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần hên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan cái mệt mỏi trên khuôn mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lại. Hai câu thơ này tạo nên mội cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tư thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
ÔN THI VĂN THPT
10 đề ôn luyện thi tốt nghiệp thpt
Top