• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Chia Sẻ Thương người học trò bị thầy lừa gạt

Thuở xưa, tại thành Xá Vệ có ông Phạm Chí làm cố vấn cho nhà vua, mở trường giảng đạo Bà La Môn, thâu được một số học trò rất đông.

Trong đám đệ tử của ông, có chàng Ương Quật Ma là một ngôi sao tỏ rạng: Văn đã giỏi, võ cũng hay, nết na thuần tuý, thêm diện mạo khôi ngô. Ai biết được Ương Quật Ma rồi cũng trầm trồ khen ngợi là người tài đức song toàn.

32-tuong-Phat-nam-dep-nen-den-chiem-bai-mot-lan-trong-doi-anh-24.jpg
Người vợ của ông Phạm Chí lại chú tâm yêu thầm trộm mến đứa học trò tài giỏi của chồng. Nhân lúc chồng đi vắng, nàng phấn son trang điểm xạ ướp hương xông đến nhà Ương Quật Ma đường đột vào phòng liếc mắt đưa tình, nói sỗ sàng những lời hoa nguyệt tray trúa, tỏ bày thái độ quyến luyến gió trăng một cách lả lơi chẳng biết ngại ngùng.

Trước cử chỉ khiêu dâm, người học trò nết na thuần túy ấy không bao giờ để cho lửa tà xâm chiếm, Ương Quật Ma giữ lễ đệ tử, thưa với vợ thầy rằng: “Thưa thím, thầy ví như cha, thì thím ví như mẹ, đệ tử thà chết chớ không dám làm điều bất chính để tiếng nhơ nhớp ngàn năm”.

Vợ ông Phạm Chí còn giòn giã nói thêm: “Hễ đói thì ăn, khát thì uống; huống nữa ta đã sẵn sàng cho thì cứ tha hồ thưởng thức cái gì gọi là bất chính?”.

Ương Quật Ma nghiêm nghị nét mặt cự tuyệt lại rằng: Kẻ ngu dốt lỡ làng thói chim muông còn biết hổ thay! người học đạo như tôi há chẳng thẹn, nếu không biết tôn ti thượng hạ. Vả lại thím cũng như mẹ tôi, tôi đâu bạo gan làm điều vô liêm sỉ. Dứt lời, Ương Quật Ma liền bước ra khỏi nhà.

Vợ Phạm Chí biết người học trò của chồng mình lòng cứng như sắt đá không thể lay chuyển nổi, nên nàng riu ríu ra về một nước với sự mắc cở chua cay. Dọc đường, nàng tức giận quá mới nghĩ kế trả thù cho đã nư, nhất là cho khỏi gai mắt. Về nhà, nàng xé quần áo, lấy màu thoa mặt biến sắc, quàu mình trầy trụa, giả bộ đau nặng, nằm rên hì hì…

Ông Phạm Chí về, thấy vợ đầu bù tóc rối, quần áo rách rưới, thân thể bị vít, thêm nghe vợ kêu nhức rối rít, ông hỏi tại sao mà đến nổi như thế?

Nàng đáp rằng: “Sớm mai này, thừa lúc chàng đi vắng, Ương Quật Ma lẻn vào phòng thiếp, kéo áo nắm tay, giở trò hãm hiếp: thiếp không không thuận tình, bị gã cưỡng bức mới ra nông nỗi như vậy”.

Ông Phạm Chí nghe lời vợ nói thảm thiết đau thương, liền tin, không cần xét lại thật giả, quyết trừng trị ngay đứa học trò mình một cách nặng nề mới vừa lòng. Ông nghĩ ra một chước để gạt Ương Quật Ma sa vào lưới pháp luật, bị án tử hình hơn là mình ra tay giết nó; ông bèn gọi Ương Quật Ma nói ngon ngọt rằng: “Con đến học với thầy bấy lâu nay nghề kiếm thuật được tinh thông; theo chỗ thầy thấy thì trong đời không ai sánh kịp. Nhưng vì thiên hạ chưa biết nên con còn mai một tên tuổi. Muốn cho con mau nổi tiếng anh hùng, trước làm rạng rỡ tông môn, sau làm vẻ vang thầy tổ, nên thầy ban cho con thanh kiếm này để cho con lập công danh trong chớp mắt”. Ương Quật Ma lãnh thanh kiếm và đứng chờ thầy chỉ dạy thêm. Ông Phạm Chí bảo rằng: “Sáng sớm, con mang gươm ra ngã tư đường cái là chỗ đông người qua lại đón chặt lấy mỗi người một ngón tay, đến đứng trưa, lấy cho đủ một trăm ngón, xỏ xâu làm như tràng hạt mà đeo, thì tự nhiên nổi danh “hoàn cầu vô địch dõng sỉ”. Con phải lập tức thi hành y như lời thầy đã dạy. Hăng hái mau lên con!”.

Ương Quật Ma gắng gượng mang gươm ra đi, vừa suy nghĩ sợ sệt, buồn rầu: nếu không nghe lời thầy thì lỗi đạo làm học trò; còn vâng lời thầy thì trái với lẽ phải; vì có ngăn ngừa mười điều ác và rộng làm mười việc lành mới sanh lên cõi trời; ấy mới phải phép con nhà Phạm Chí; con người lung lăng giết hại trái với lương tâm, con người học đạo nỡ lòng nào tàn nhẫn. Mãi so hơn tính thiệt, nghĩ tới xét lui, Ương Quật Ma bấn loạn tâm thần, đi vừa đến cội cây cổ thụ bên vệ đường, chàng bị xây xẩm mặt mày, ngã gục ngất người bất tỉnh. Thừa cơ, quỉ ác ám ảnh làm cho chàng như điên như dại, trợn mắt nghiến răng, hươi gươm vùn vụt.

Lúc bấy giờ, kẻ bộ hành bốn phương vì nghiệp xua đuổi đến bị Ương Quật Ma chặt đứt mỗi người một ngón tay, trong chốc lát gần đủ số một trăm. Những kẻ mắc nạn kêu la thảm thiết, tiếng đồn thấu tai nhà vua, các thầy Tỳ kheo đi khất thực cũng rõ việc chẳng lành ấy, nên khi về tới tịnh xá, liền bạch với Phật:

Ðức Thế Tôn nghe qua động lòng thương xót, bảo các thầy Tỳ kheo rằng: “Các người cứ ngồi yên, để ta đi cứu khổ cho mọi người”. Dọc đường, Phật gặp bọn chăn dê và dân chúng khuyên Ngài đừng vào con đường đương có người điên rồ tàn ác giết hại không biết bao nhiêu người rồi. Nếu Ðức Phật đến đó; Sợ e không khỏi bị thiệt hại: mất một ngón tay.

Ðức Thế Tôn đáp: “Không sao cả, giả sử trong ba cõi đều là giặc cả, ta cũng không ngại gì, huống chi chỉ có một người tàn bạo, thì ta có sợ gì, chúng ngươi chớ lo ngại”.

Mẹ Ương Quật Ma thường ngày vẫn thấy con gần đến giờ ngọ là về dùng bữa, mà hôm nay sắp đứng bóng rồi sao chẳng thấy con về, bà bèn đem cơm ra khỏi nhà tìm con. Khi đến nơi thì Ương Quật Ma đương đếm ngón tay được 99 cái. Nó trông lên mặt trời thấy đúng ngọ mà còn thiếu một ngón tay nữa, sợ quá giờ hỏng việc. Ương Quật Ma lòng đương bối rối, thoạt thấy mẹ đến, không rõ là ai, giơ kiếm chực chặt lấy ngón tay cho đủ số một trăm.

Mẹ Ương Quật Ma thấy con có bộ tịch hung hăng, bà hoảng hốt lui lại, thì lúc đó Phật vừa đến kịp.

Thương hại cho Ương Quật Ma thình lình bị ác quỷ ám ảnh mê muộn làm việc tàn nhẫn nếu chặt đứt tay mẹ, phạm lấy tội ngổ nghịch, sẽ bị trầm luân nhiều kiếp rất tội nghiệp, bèn hóa làm thầy Sa Môn lướt tới đứng trước mặt mẹ chàng. Gã thấy thầy Sa môn liền gươm toan chém lấy ngón tay. Nhưng vô hiệu quả, nó không làm sao lại gần bên mình thầy tu ấy được, mặc dầu nó ráng hết sức chạy theo cũng không bắt kịp. Ương Quật Ma nghĩ rằng: Ta nhảy một cái vượt khỏi sông lớn dễ dàng như kẻ thế gian bước mương rãnh, còn thầy Sa môn này đi bộ mà ta hết sức chạy theo cũng không kịp. Thật là lạ! Vậy ta phải dùng phép nhiếp hồn mới được. Ương Quật Ma bèn nạt một tiếng thật to vang như sấm, kêu rằng: “Thầy Sa môn kia phải dừng lại”. Thầy Sa môn đáp: “Ta đứng yên đã lâu, tại ngươi cứ chạy mới cách xa ta mãi!”.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
“Một đêm nọ, giữa vách đá cheo leo, vua Lear đã hỏi ngài Bá Tước Mù xứ Gloucester rằng: “Ông hình dung cuộc sống này ra sao?”.
Ngài đáp: “Tôi cảm nhận nó bằng tất cả cảm xúc của mình”

Và chúng ta không nên giống như vậy hay sao?

tree-648624_960_720.jpg
Tôi kịch liệt kêu gọi mọi người hãy nói không với việc ăn thịt động vật, bởi đêm nay chúng sẽ kêu thét trong sợ hãi khi bị nhốt trong chốn ngục tù là các lồng kín – chốn lầm than tuyệt vọng của loài vật dưới bàn tay đê hèn, nhục nhã của loài người. Tôi đã nghe cha mình kêu lên đau đớn khi cơ thể ông bị căn bệnh ung thư hành hạ và khiến ông lịm dần vào cõi chết. Tôi chợt nhận ra mình đã nghe những âm thanh đau đớn ấy trước đây. Trên những chuyến tàu chở gia súc đến vùng Trung Đông, trong những lò mổ, khi đôi mắt gia súc bị chọc mù và gân chúng bị cắt đứt: và cả tiếng thét của cá voi mẹ khi bị cây lao móc hung bạo găm vào đầu lúc cô ấy đang tuyệt vọng gọi con. Những tiếng thét đau đớn ấy chín là hiện thân của cơn đau mà cha tôi từng chịu đựng.

Tôi phát hiện ra rằng mọi loài đều biết đau, đều sợ khổ như nhau và khả năng chịu đựngđau đớn thể xác lẫn tinh thần của một chú chó, lợn hoặc gấu,… cũng như một cậu bé vậy. Thịt là một loại thuốc độc mới, nguy hiểm hiểm chết người hơn cả thuốc lá. Lượng khí CO2, Mê-tan, NO thải ra từ ngành chăn nuôi đang hủy hoại các đại dương khi tạo ra những Vũng Chết đầy axit và thiếu oxi trầm trọng. 90% các loài cá nhỏ bị chế biến thànhthức ăn viên cho chăn nuôi. Những chú bò xưa nay chỉ ăn rau cỏ bỗng chốc gián tiếp trở thành thú ăn thịt nguy hiểm nhất dưới lòng đại dương. Đại dương đang hấp hối, và đến năm 2048, môi trường sống của chúng ta, của tất cả các loài cá biển sẽ không còn. Lá phổi, những tuyến đường biển huyết mạch đều sẽ biến mất. Hàng tỉ chú gà con xinh xắn, đáng yêu vừa mổ vỏ ra đời đã bị nghiền sống vì chúng là gà trống. Có khoảng 100 tỷ người từng sống trên Trái Đất, 7 tỷ đang tồn tại, nhưng chúng ta lại tra tấn và giết hại đến 2 tỷ động vật mỗi tuần. 10 ngàn giống loài bị xóa sổ hàng năm chỉ vì tội ác của một loài duy nhất. Và giờ đây chúng ta đang phải đối mặt với sự tuyệt chủng lần thứ 6 trong lịch sử vũ trụ. Nếu nói từ góc nhìn của một nhà sinh vật học, loài người chính là một loại Virus đáng sợ. Đây là tội ác mất nhân tính với tỉ lệ không thể tưởng tượng được từ trước tới giờ.

Nhưng hạnh phúc thay, thế giới đang đang thay đổi. Khoảng 10 năm trước, Twitter chỉ là tiếng chim kêu vô nghĩa, Cloud chỉ đơn giản là một đám mây trôi trên bầu trời, 4G thì ám chỉ nơi đỗ xe, Google là tiếng ợ của trẻ con, Skype là lỗi đánh máy, và Al Queda là thợ sửa ống nước cho gia đình tôi, Victor Hugo từng nói:“ Không gì mạnh hơn một ý tưởngxuất hiện vào lúc cần nhất”.

Quyền Động Vật là vấn đề công bằng xã hội lớn nhất kể từ khi chế độ nô lệ bị bãi bỏ. Quý vị biết rằng có đến hơn 600 triệu người ăn chay trên toàn thế giới, và lực lượng đó còn đông hơn cả Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ý, Canada, Úc, New Zealand gộp lại! Nếu những người ăn chay hợp thành một quốc gia thì họ sẽ mạnh hơn 27 nước Liên Minh Châu Âu!! Nhưng dù có lại thế lớn về mặt số lượng, chúng ta vẫn đau đầu về nạn săn bắn và giết hại vô tội vạ từ những thế lực cho rằng bạo lực mới là câu trả lời trong khi những điều đó đáng nhẽ còn không nên được đem ra để cân nhắc!

Nhu cầu về thịt giết chết muôn loài, giết chính chúng ta và kéo theo cả nền kinh tế. Chi phí thuốc men và phẫu thuật đã khiến Mĩ vỡ nợ. Họ cần đến 8 nghìn tỷ dollar đầu tư vào trái phiếu chỉ để trả tiền lãi và không thu về cho mình được một đồng! Họ có thể đóng cửa tất cả trường học, lực lượng quân đội, không quân, Bộ Quốc Phòng, CIA và FBI,… nhưng vẫn không đủ để thanh toán các hóa đơn viện phí. Đại học Cornell và Harvard đã chứng minh lượng thịt lí tưởng nên tiêu thụ để đạt được chế độ ăn khỏe mạnh là hoàn toàn 0! Nước sạch được ví như dầu mỏ mới, rồi sớm muộn các quốc gia cũng gây chiến vì nước. Những tầng đất giữ nước từng mất hàng triệu năm để hình thành nay đang dần cạn kiệt; Vậy mà cần đến 50 nghìn lít nước mới có thể sản xuất được một kí thịt bò. Mỗi ngày có 1 tỷ người khổ sở vì đói ăn, 20 triệu người có thể chết vì thiếu dinh dưỡng. Nhưng nếu giảm lượng thịt tiêu thụ xuống chỉ 10%, chúng ta đã tao ra bữa ăn cho 100 triệu người; chứ chưa nói đến việc chấm dứt hoàn toàn việc ăn thịt, chúng ta có thể xóa sổ nạn đói mãi mãi.

Nếu tất cả mọi người đều ăn uống theo kiểu phương Tây, sẽ phải cần đến hai Trái Đất mới đủ để phục vụ nhưng chúng ta chỉ có một và mẹ Trái Đất đang chết dần. Khí nhà kính thải ra từ các ngành công nghiệp chăn nuôi nhiều đến 50% lượng khí thải ra từ các phương tiện vận tải như ô tô, tàu hỏa, xe buýt, tàu bè, xe tải… tất cả. Tôi đã đi ra thế giớivà và chứng kiến những nước nghèo bán thóc lúa cho Tây phương trong khi con họ nằm đói lả trong vòng tay cha mẹ. Nhưng chúng ta lại sử dụng nguồn thực phẩm đó để vỗ béo gia súc! Để thu lại cho mình một miếng bít tết ư? Phải chăng tôi là người duy nhấtxem việc này là một tội ác? Mỗi miếng thịt chúng ta đưa lên miệng chẳng khác nào một cái tát vào khuôn mặt đói lả lấm lem nước mắt của một đứa bé. Khi phải nhìn đôi mắt các cháu, tôi có thể nào cứ im lặng? Mẹ Trái Đất có thể lo cho chúng ta bữa ăn đầy đủ, nhưng người bất lực trước lòng tham không đáy. Chúng ta đang phải đối mặt vơi một cơn bão kinh hãi. Giả sử nạn ăn thịt là một quốc gia nào đó đã chế tạo vũ khí để trút xuống Mẹ Trái Đất những cơn tàn phá khủng khiếp đến vậy, chúng ta sẽ ngăn chặn trước bằng cách tấn công quân sự và ném bom cho nó quay về thời kỳ Đồ Đồng. Nhưng kẻ thù này lại không phải một quốc gia. Hắn là ngành công nghiệp thịt. Tin tốt là ta không phải ném bom hắn, hãy chỉ đơn giản là ngưng tiêu thụ sản phẩm của kẻ thù này thôi. Tổng thống George Bush đã lầm. Cái gọi là “ Trục Ma Quỷ” của ông không hiện hữuở các nước Irag, Iran hay CHDCND Triều Tiên. Nó hiện hữu trên bàn ăn của chúng ta. Vũ khí hủy diệt hàng loạt không gì khác hơn là dao và nĩa mà tay ta đang cầm.

Đề xuất của chúng tôi ví như một bộ dao đa năng của quân đội Thụy Sĩ cho tương lai – khả năng giải quyết tất cả những vấn đề về nước sạch, về môi trường, sức khỏe cũng như mãi mãi chấm dứt sự tàn ác. Thời Kỳ Đồ Đá không chấm dứt vì chúng ta không còn hòn đá nào. Ngành công nghiệp tàn bạo này sẽ phải chấm dứt vì chúng ta không thể tìm thêm lí do nào để bào chữa. Thịt cũng giống như 1 hay 2 đồng cent vậy, giá trị của nó thấp hơn số vốn ta phải bỏ ra để sản xuất nó. Nông dân sẽ là người được hưởng lợi nhiều nhất. Nghề nông không những không bị xóa sổ, mà sẽ bùng nổ. Chỉ cần cơ cấu dây chuyền sản phẩm thay đổi, người làm nông hứa hen sẽ làm ra nhiều tiền đến nỗi không thể đếm xuể. Chính Phủ sẽ thân ái hơn với người dân. Cơ cấu công nghiệp mới sẽ phát triển và phồn thịnh. Các khoản tiên phải đóng cho bảo hiểm sức khỏe sẽ giảm mạnh, danh sách bệnh ngồi chờ khám ở bệnh viện sẽ biến mất. Kính gửi địa ngục: “ Chúng tôi quá khỏe mạnh. Chắc phải bắn một ai đó để mở hàng cho nghĩa địa”. Và tại đây tôi đưa ra hai thách thức cho phía đối lập:

1. Thịt là nguyên nhân của hàng loạt căn bệnh ung thư và bệnh tim. Liệu họ có thể nêu tên bất kì loại bệnh nào gây ra bởi chế độ ăn chay?

2. Tôi đang vận động gây quỹ cho bộ ba phim tài liệu: “ Chúng sinh địa cầu”, Nếu phía đối lập rất tin tưởng vào cơ sở lí luận của họ, tôi thách họ gửi phim “Chúng Sinh Địa Cầu” đến tất cả đồng nghiệp và khách hàng của mình. Vâng tôi thách thức quý vị đó!

Động vật không chỉ là những giống loài khác, động vật là những quốc gia khác. Loài người tàn sát chúng cũng là gián tiếp giết hại chính mình. Bản đồ hòa bình hiện ra trên mỗi trang thực đơn. Hòa bình không chỉ là sự vắng mặt của chiến tranh, mà còn là sự hiện diện của công lý. Công lý không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo hay giữa muôn loài. Nếu Thần Công Lý không thể phân minh, e rằng bà sẽ trở thành thứ vũ khí đáng sợ. Và đêm nay vẫn tồn tại những tội ác không hình dung nổi ở những nhà tù Guantanamo, những lò mổ đó. Hãy tin tôi, nếu những lò mổ có lắp tường kính thì chúng ta sẽ không phải tổ chức cuộc tranh luận này.

Tôi tin rằng ta có thể tạo ra một thế giới mới. Giữa đêm tĩnh lặng, tôi có thể nghe thấy tiếng thở của Mẹ Đất. Hãy chung tay đưa động vật ra khỏi thực đơn và những địa ngụctra tấn. Hãy ủng hộ cho những đứa con của Mẹ Trái Đất không thể lên tiếng bảo vệ bản thân mình!

Cảm ơn quý vị!”

Phillip Wollen


Xem thêm các tin tức mới nhất tại trang thông tin trực tuyến : vnol.vn
 
Sửa lần cuối:
Tiếng thở của những cơn mưa

Trong màn mưa trắng xóa, ba tôi bước ra lừng lững. Ông đứng giữa sân mặc cái áo tơi ống màu xanh chai cũ nát. Nước theo cái áo tơi chảy ròng ròng xuống đôi chân gân guốc của ông... Mặt ba tôi đẫm nước, xâu cá trên tay ông cũng đẫm nước... Ông chẳng nói chẳng rằng, chỉ đứng thở, tiếng thở của ông hòa vào âm thanh của những cơn mưa…


Ba tôi có nếp đi bắt cá đồng mùa lũ. Người miền Trung nào ở đồng cũng có nỗi ham mê ấy bởi đất nghèo chỉ cho con người chút ơn huệ rốt cuộc khi trời đất ơi trút hận vào những cơn mưa.

Mỗi khi mưa về, ba tôi thường ra đồng từ sáng sớm. Ông săm soi từng gốc mạ, từng chỗ tháo nước… cứ như thế gần trưa ông mới về. Ông ít nói, mà có nói thì cũng chỉ thầm thĩ với má tôi để lây qua bà cái nhìn lo âu và những tiếng thở dài héo queo…

Cũng có lúc ba tôi vui, mày mặt ông tươi, xâu cá đồng xách trên tay uốn éo theo nhịp bước, ông cười hỉ hả nói oang oác, xối nước ào ào ngoài giếng. Đó là lúc ông đem về năm ba con cá tràu đen trũi quẫy cái bụng đầy trứng, chục con cá rô vàng ngậy, vài con lươn to tướng thấy đã mắt.

Bữa cơm nóng với món cá đồng nướng thơm chấm mắm gừng, tô lươn vàng sả ớt um chuối hường bẻ ngoài vườn, đĩa rau luộc mắm nêm cay điếng lưỡi luôn kéo cả gia đình ngồi lại bên nhau. Sau này đi làm rồi tôi tìm mãi nhưng chưa thấy món ăn nào ngon bằng những món ấy. Tôi xa cha mẹ, xa quê, tôi tìm mãi hương vị của ngày thơ dại nhưng “cái ngày ấy” đã ẩn trong kí ức xa xăm chỉ để lại trong tôi nỗi nhớ độc nhất: hơi thở của những cơn mưa buồn bã…

Từ khi chúng tôi đứa đi làm đứa đi học xa, bố mẹ tôi sống lần hồi với những cơn mưa miền Trung trắng đất tối trời… những cơn mưa làm ông bà héo dần theo năm tháng... bác mẹ tôi đi theo chúng hấp tấp... Má tôi mất đầu mùa mưa. Ba tôi cứ mỗi lần thắp nhang cho má lại đứng cạnh bàn độc thì thầm rất lâu, có lẽ ông nói với bà về những cơn lũ, những cánh đồng thất bát, những năm tháng túng thiếu của vùng đất nghèo nàn bậc nhất này… Ông thở dài… tiếng thở lại hòa vào nhịp mưa…

Khi nhớ má tôi không thể cầm lòng được nữa, ba ra đi giữa mùa mưa... Ông đi hấp tấp, khi tôi hay tin về đến nhà thì ba tôi không còn nói được lời nào. Ông lặng lẽ nằm đó, mày mặt vẫn hồng hào, chỉ có đôi tay ướt nước mưa lạnh cóng. Tôi cầm tay ba, nước mưa từ lúc nào đã lặng lẽ ướt đầm mắt tôi….

Tôi ngồi canh ba tôi thay các chị. Ông vẫn thở đều đều, mắt nhắm nghiền như chìm vào giấc ngủ say... Tôi mơ hồ nghe tiếng thở của ba tôi rền rĩ như bước chân lang thang của cơn mưa sắp bước đi xa... Sau này tiếng thở khò khè ấy ám ảnh tôi mãi…

bây chừ, mỗi khi ngồi lặng dưới mưa, tôi lại mơ về ngôi nhà cũ, thấy ba tôi đứng giữa sân, trong màn mưa tháng mười trắng xóa... Và tiếng thở của Người vẫn còn đó... tiếng thở đều đều nhưng rền rĩ như tiếng bước chân của cơn mưa xa xôi...

Xem thêm :

Tuổi thơ Sài Gòn

Mắt em buồn mênh mông

Từng bậc sớm mai

Hoặc tại : https://phatphapbaodung.blogspot.com/
 
Món quà của sự chờ đợi

Có câu chuyện vui về một người cưỡi một con ngựa đang phi như bay trên đường. Khi anh và con ngựa chạy ngang qua một khu phố, có vài người quen đứng bên đường thấy vậy gọi với theo, “Anh có việc gì phải đi đâu mà vội vã thế?” Anh ta ngoái đầu lại và nói lớn, “Tôi cũng không biết nữa, hỏi con ngựa kìa!”

Trong thời đại của kỷ nguyên thông tin hiện tại, information age, mọi việc xảy ra rất nhanh lẹ và dồn dập, cuộc sống chúng ta nghe đâu cũng bị thu hút theo cùng với một nhịp điệu ấy. Mỗi sáng sớm thức dậy, cái mà ta nhìn trước nhất là chiếc đồng hồ ở bên cạnh, một ngày của ta cũng được bắt đầu dưới sự chỉ huy của thì giờ. Tốc độ và sự bận rộn trong cuộc sống đôi lúc cũng khiến ta cảm thấy mình cũng giống như anh chàng trong câu truyện ấy.

Có lần tôi đi nghe nhạc với một người bạn. Trong phần giao lưu với khán giả, có người hỏi anh ca sĩ lừng danh ấy rằng anh có dự kiến gì cho mai sau của mình không? Anh đáp, hiện giờ sự nghiệp anh vẫn còn “đang lên” nên chưa muốn bị buộc ràng hay nghĩ gì đến mai sau bóng gió hết. Anh chỉ muốn tận hưởng những dịp mà anh hiện đang có, mặc dầu anh phải tạm gác lại một số công việc quan yếu khác, ngay cả cuộc sống riêng của mình… Mà những gì anh san sẻ cũng rất thật phải không bạn? Đôi khi chúng ta cũng như người đang cưỡi con ngựa chạy như bay, ta chẳng thể dừng lại được.

Có lẽ cái cảm giác rằng khi ta hoàn thành được một số việc nào đó, đạt được những gì mình muốn, chúng mang lại cho ta một cảm nhận rằng cuộc sống mình có phẩm chất và có hướng đi rõ ràng hơn. nên thành thử chúng ta lúc nào cũng phải làm một việc gì, đeo đuổi một cái gì đó, và khi không làm gì hết ta lại cảm thấy như là mình đang phung phá thì giờ.

Nhưng giả dụ trong cuộc sống, có những lúc ta dừng lại không làm gì, thì đó có là một sự vô bổ chăng?

Trong cuộc sống kiên cố sẽ có những phút giây chờ, bắt ta phải dừng lại, không làm gì hết. Nhưng chúng không phải là những thời kì vô dụng đâu bạn! Thật ra đó có thể là món quà quý mà cuộc sống thỉnh thoảng dâng tặng cho mình, phải ta biết cách hấp thụ chúng.






Bà Jan Chozen Bays, một giáo thọ của dòng thiền Nhật bản, có san sớt về một món quà quý mà sự dừng lại trong cuộc sống hấp tấp này có thể dâng tặng cho chúng ta.

“Trong đời sống, mỗi khi chúng ta bị thắt phải dừng lại và đợi chờ, tỉ dụ như khi bị kẹt xe trên đường, ta thường có thiên hướng muốn làm một cái gì đó để lảng tránh cái cảm giác đợi khó chịu ấy. Ta mở radio lên, gọi điện thoại, xem email, hay ngồi đó bực dọc. Nhưng phải ta có một tinh thần minh bạch về những chốc lát chờ đợi ấy, chúng sẽ trở thành những nhịp thực tập giúp mang lại sự tỉnh thức cho mình trong cuộc sống hằng ngày.”

đợi chờ là một sự kiện rất thường nhật của đời sống nhưng lại thường gây cho chúng ta một cảm xúc khó chịu. Nhưng ta có thể biến đó trở thành một món quà tặng đặc biệt cho chính mình, một dịp, một thời kì để thiền tập. Và sự lợi lạc của nó cũng gấp đôi: trước nhất, ta chuyển hóa được cảm giác khó chịu, tiêu cực của mình, và thêm nữa, bất cứ một phút chốc nào của cuộc sống cũng có thể là một nhịp thiền tập của ta.

Và sự tập sự này cũng rất là đơn giản. Mỗi khi phải chờ một việc gì, trước nhất bạn hãy để ý đến những cảm thọ nào đang có mặt trong thân mình, chúng là biểu hiện của những ý nghĩ và cảm xúc vội vã trong ta như là sự nóng vội, bất an. Và mỗi lần ta không để cho những ý nghĩ và xúc cảm ấy biến trở nên quả trái, ví dụ như sự tức tối khi bị kẹt xe, hay nôn nóng vì người xếp hàng phía trước quá chậm, là ta đang làm giảm bớt đi năng lượng bị động của những tập quán, lề thói xưa cũ trong tâm mình.

nếu như ta đừng để bánh xe tâm của mình tiếp kiến lăn theo cùng một vết lún sâu trên con đường mòn dẫn ta đi xuống một con đầm lầy, thì rồi một ngày vết lún ấy cũng sẽ được phủ lấp lại bằng phẳng như xưa. chung cục rồi thì những lề thói bực tức, những phản ứng bức xúc của ta sẽ dần dần nhạt phai đi. Thật ra tiến trình này cũng chỉ là đơn giản như vậy thôi. Nó cần thời kì, nhưng rất có hiệu quả.

Xem thêm : Thưởng xuân

Hoặc tại : https://baihocdedoi.blogspot.com
 
Chân dung của một thánh nhân

Trên đời này có những bậc thánh hay không? Nhiều người không tin như vậy. Nhưng trong cả tỷ người của nhân loại, đã có một số người hiếm hoi được coi như là thánh nhân, vì họ làm được những điều mà những người thông thường không ai làm được, thí dụ như Gandhi, hay Mẹ Theresa chẳng hạn…

Những người ấy nghe đâu thuộc về loại người phi thường, ở trên một xã hội cao xa, xa cách với những người thông thường chúng ta. Đó là theo cách nhìn của những đạo như Ấn độ giáo, công giáo v.v.. Nhưng theo đạo Phật, trong mỗi con người đều đã có sẵn một vị Phật, và ai cũng có thể thành Phật, qua quá trình chuyển đổi “từ phàm qua thánh.”

Như vậy, trong cõi tục gian ô trọc này, có thể có những người đã hoán chuyển từ phàm nhân thành thánh nhân vẫn đang sống lẫn lộn với chúng ta, mà ta không biết tới. vì chưng không có thánh nhân thực sự nào tự nhận mình là thánh nhân cả, mà phần đông là do những người có cơ duyên tiếp xúc đã cảm nhận như vậy mà thôi.

Theo thiển kiến, tiến trình chuyển hóa từ phàm qua thánh cũng qua nhiều cung bậc, mà có lẽ chỉ có người chứng đắc mới tự biết được. Tuy nhiên, một người đạt tới mức “thánh” không chỉ vì trí óc của sự giác ngộ và công đức của những điều lành đã làm, mà còn có thể tỏa ra một từ lực ảnh hưởng đến tâm của người trước mặt. Từ lực đó đem lại sự an lạc và hứng khởi, và cũng làm dấy lên một niềm tin trong lòng người đối diện.


Trong tháng vừa qua, miền Nam California đã có cơ duyên tiếp đón một vĩ nhân của thời đại, Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng, trong đại lễ khánh thành chùa Điều Ngự. Không đi dự, nhưng tôi đã ở nhà theo dõi chương trình truyền hình trực tiếp. Điều làm tôi để ý nhất, có nhẽ là thái độ khiêm tốn, bình dị, mà luôn ung dung tự tại của Ngài. Những cử chỉ của ngài rất hồn nhiên, rất thường ngày như một con người bình thường, nhưng vẫn có một vẻ gì cao quý khiến người ta phải kính trọng.

Tuy chỉ qua màn hình, nhưng tôi dường như cảm nhận được từ lực toát ra từ Ngài, qua bộ mặt lúc nào cũng tươi cười hỷ xả, qua lòng từ bi biểu đạt đối với sờ soạng những người được tiếp cận. Một con người phải có sức quyến rũ phi phàm mới cuốn được hàng ngàn vạn người từ đủ mọi sắc tộc, mọi tôn giáo khác nhau đến để họp mặt, mặc cho thời tiết nóng lạnh, phải chịu đựng những bất tiện, ngay cả tốn kém nữa. Như vậy, điều gì đã tạo ra từ lực phi phàm ấy?

Tìm hiểu tiểu truyện của ngài, ngay từ thuở thơ từ đã được suy tôn như vị vua ý thức và chính thức của sơn hà Tây Tạng, rồi khi đất nước bị ngoại bang tranh đã phải sống đời lưu vong nơi xứ người, mang nặng trên vai trọng trách của một nhà lãnh đạo. Kể từ đó trong suốt 60 năm qua ngài đã chiến đấu không ngừng nghỉ, tìm một giải pháp tự trị cho quê hương để bảo vệ cho dân tộc và nền văn hóa truyền thống.

có lẽ hơn ai hết, cuộc thế của ngài đầy dẫy những thử thách gieo neo, những nỗi niềm u uất và trăn trở trước hành động mọi rợ của kẻ xâm lăng bá quyền muốn xóa bỏ một giang sơn dân tộc đã từng một thời có một quá cố quang vinh. Nhưng chính những khó khăn trở lực đó lại là cơ duyên cho ngài rèn luyện con người của mình, để trở thành một biểu trưng của tình thương và trí não mà mọi người trên thế giới đều phải kính phục.

Ngài đã nói như sau về kinh nghiệm của mình: “Trường hợp của tôi, ở tuổi 16 đã mất tự do, và đến 24 tuổi thì mất quê hương. Tôi đã là một người tỵ nạn trong suốt 40 năm, với trách nhiệm nặng nề trên vai. Khi tôi nhìn lại, thấy thế cục mình không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, qua suốt những năm tháng đó, tôi đã học được lòng từ bi, về sự quan hoài chăm sóc đến người khác.

ý thức ấy đã đem lại người mạnh nội tại trong tôi. Những khổ đau gặp phải vững chắc sẽ góp phần thăng tiến trong sự tu tập linh tính, nếu bạn có thể chuyển hóa những tai họa và sự bất hạnh qua con đường Đạo pháp.

Những thời kỳ khó khăn xây đắp cho ta sự kiên tâm và sức mạnh nội tại, qua đó ta có thể nhìn ra được sự vô dụng của những cơn nóng giận. Thay vì nổi nóng, hãy nuôi dưỡng một mối quan tâm sâu xa và sự kính trọng đối với kẻ đã xâm hại đến ta, vị chính nhờ những cảnh ngộ thử thách họ đã tạo nên mà ta mới có cơ hội vô giá để thực hành hạnh nhịn nhục.

Xem thêm : Bài thơ hạnh phúc

Hoặc tại : https://anhsangphatphaptubi.blogspot.com/
 
Phước báu không phải là Định Tuệ

Đại sư Bạch Ẩn nói:

“Thường có một số người hay góp nhặt thật nhiều để có nếp sống xa hoa, cho sự trù phú của ngôi chùa sẽ làm tăng vẻ hào nhoáng cho việc giảng pháp.

Chư vị tưởng có tài hùng biện, ăn nói lưu loát là có trí não, coi việc ăn ngon mặc đẹp là đồng với Phật đạo, xem vẻ đẹp quyến rũ và sự kiêu ngạo như những đức tính, và cho rằng lòng tin của tín đồ đối với họ là dấu hiệu cho thấy họ đã giác ngộ được pháp Phật. Nhưng đáng buồn nhất là họ đem cái thân xác con người có được này ra làm nô lệ cho sự mưu cầu lợi danh chôn vùi Phật tánh vô thượng dưới những lớp bụi ảo mộng chồng chất…”
giảng giải:

Thiền sư Bạch Ẩn phân tách để thấy: Sự trù phú của một ngôi chùa, việc ăn nói trôi chảy và lòng tin của Phật tử đối với một thiền giả, chưa hẳn đã là thứ tượng trưng cho việc thiền giả đó có đủ Định Tuệ. Đây nói CHƯA HẲN, vì những việc như thế có thể xảy ra với một vị có Định Tuệ nhưng vẫn có thể xảy ra nơi một vị không có Định Tuệ. Phân biệt như thế, để chúng ta hiểu phước báu và Định Tuệ không phải một. Có phước báu chưa hẳn đã có Định Tuệ. Có thể lấy việc ngày nay ở cõi trần để chứng tri: Người có thể xây mấy ngôi chùa chưa hẳn đã biết gì về giáo lý thiền, huống là hành thiền để nói là có Định Tuệ.

Sự trù mật không phải là Định Tuệ

Tăng ni nếu chẳng niệm Phật, thiền tọa v.v… mà chỉ lo tập trung làm việc phước thiện như cứu trợ, cúng dường các chùa, các trường hạ, lo việc phật sự thì quả báo của những việc đó là sự sung túc, môn sinh đông v.v… chứ chẳng thể là Định Tuệ. Định Tuệ là cái quả của Chỉ Quán, của Niệm Phật Tam Muội v.v… không phải là cái quả nảy sinh trực tiếp từ bố thí cúng dường.

Phát tâm tu Phật một thời kì, đây nói tu Phật không nói tu phước, bỗng thấy mọi thứ chung quanh thay đổi: Từ ngôi nhà hay ngôi chùa cũ rích bỗng trở nên nguy nga hoa lệ, tiền nong bắt đầu hanh thông v.v… thế là cái niệm tự đắc nẩy sinh, cho đó là kết quả tu hành thành công của mình. Ừ, đó là do kết quả tu hành của mình, nhưng chỉ mới ở mặt phước đức, chưa hẳn là do định lực và trí não phát triển. Nếu mình lầm lẫm giữa hai việc này với nhau thì mình rơi vào chỗ mà Đại sư đã nói: “Coi việc ăn ngon mặc đẹp là đồng với Phật đạo”.

Người tu phước thì không có gì để nói vì họ chỉ nhắm tới mặt phước báu. Khi phước báu đầy đủ, họ dừng trụ ở đó là chuyện dĩ nhiên. Còn mình tu Phật, mình đã khoát lên người chiếc áo của Như Lai thì “Trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh.” Muốn cầu Phật đạo thì Định Tuệ phải có. Không có Định Tuệ thì không có Phật đạo. Bản thân mình đã không có Định Tuệ thì lấy gì để hóa độ chúng sinh hướng về Phật đạo?

Không có Định Tuệ mà phước báu càng lớn thì có khi ác hại càng nhiều. Bởi nó khiến mình không thể dừng mà cũng không có ý muốn dừng. Mình bị cuốn phăng trong dòng phước báu minh mông. Ý thức được sự nguy hại của nó, chưa chắc đã thoát ra được, huống là không tinh thần, cứ nhập nhèm cái quả phước đức với Định Tuệ?

Trong quá trình xây dựng thiền viện Trí Đức, thầy T.H. đã ra đi. Tôi không xúc tiếp nhiều với thầy nhưng vẫn nghe thầy là một người đáng nể trong việc phật sự cũng như tu học, thành nghe tin thầy mất, tôi không khỏi sửng sốt và đớn đau.

Chết và sống là chuyện thường tình ở thế gian. Không ai chịu nghĩa vụ về cái chết của ai được. Bởi con người là kẻ tạo nghiệp và thừa tự cái nghiệp mình tự gây tạo đó. Nhân duyên của thầy như thế thì việc xảy ra là như thế.

Xây dựng Trí Đức cũng là việc phải làm, bởi thiền sinh ngày một đông và phật tử cần có chỗ tu học. Mọi thứ là cấp thiết, không có gì dôi. Việc làm và sự ra đi của thầy là cao quí. Nhưng không hiểu sao, cái chết ấy cứ xoáy mạnh vào tâm can tôi như một lời nhắc: Làm phật sự, NẾU KHÔNG KHÉO cũng chính là đang chạy theo tướng bên ngoài. Chạy theo tướng bên ngoài thì giết chết tuệ mạng của người tu. Tuệ mạng của mình đã chết thì tuệ mạng chúng sinh hữu duyên với mình cũng không còn. Bởi lấy gì để hướng chúng sinh của mình về Phật đạo?

Xem thêm tại : https://baihocdedoi.blogspot.com
 
hương lửa xa xôi

Mỗi thứ mùi hương gợi nhớ cho ta về một vùng kỷ niệm.

Có lần đi họp phụ huynh, chen chúc đi qua một đám học trò đang chơi đùa ồn ã, nghe mùi mồ hôi, mùi khét nắng của lũ trẻ bủa vây, bỗng nhớ cồn cào về ngôi trường tiểu học của mình. Mùi của lớp học, của những năm tháng học trò sau những giờ ra chơi nghịch đùa hết cỡ; trở vào lớp rồi, nghe tiếng thước của thầy cô đập chan chát lên bàn kêu gọi thứ tự rồi, mà không khí giờ chơi vẫn chưa tan. Mùi của mấy chục đứa chen chúc nhau trong lớp học ngày nắng, quen sao mà quen quá chừng!

Có những mùi hương đã quá lâu rồi ta không còn dịp để nghe thấy nữa. Đó là mùi của rơm rạ lúa mùa, mùi của bông lúa nướng mỗi sáng mùa gió bấc, khi má ta dậy sớm vun đống lá sau vườn đốt lên trong cái lạnh se se. Ta rút một bông trong đống lúa chất đầy sân chờ quây đập, hơ vào ngọn lửa lá.

Bông lúa vàng nở trắng trên tay, mùi thơm đó ráo tưởng hình như không có mùi thơm nào trong phạm trù ẩm thực có thể tiệt, thanh khiết và thơ mộng tinh tế hơn! Đó là mùi của bùn đất dọc bờ sông; cái thứ đất đủ độ dẻo vừa tay để ta nặn những cái tu hú, con trâu, con cá… Đó là mùi nước cơm chắt ra từ bếp củi, tô nước cơm trắng láng điểm những tàn tro lọ nghẹ. Đó là mùi của bông gáo, bông cà na mà chỉ những trưa đứng gió, ngồi lắt lẻo trên cành sát cạnh những chùm bông ta mới có thể nhận ra.


Và, có một mùi hương mà mỗi năm chỉ một lần ta lại được nghe thấy nó. Một mùi hương thiêng, đặc biệt, gợi nhớ nôn nao. Đó là mùi khói nhang đêm giao thừa.

giờ khắc đó, tuốt mọi nhà, làng trên xóm dưới đều thắp lên mấy nén nhang. Mùi khói nhang quyện với mùi bông mai, bông cúc, bông vạn thọ… và những thứ bánh mứt bày cúng. Những mùi hương ấy cứ như hợp đàn nhau, quây quần níu lấy nhau, hòa quyện, lan tỏa bâng khuâng trong không khí đêm khuya thanh khiết.

Ngày ba chưa khuất, đêm giao thừa nào ta cũng về ngồi lắng tai mùi hương lửa bên ba. Và đã viết lên những vần thơ mộc mạc:

Chiều Tết Ba mươi, chải đầu mang guốc
Mỗi dăm ba tôi làm việc ấy một lần
Vài sợi pha sương, da dầy hơn đất
Cần gì lược chải đầu, cần gì guốc cho chân.
Bước mạnh nói to, mỗi năm có một lần
Ba nhẹ gót lầm rầm khấn vái
Tôi khép nép nhìn người đứng lạy
Bỗng thấy mình sợ hãi trước tiên sư cha.
Ôi cái điều lẻ
Tôi cứ ngỡ không còn trong tôi nữa
Cuộc sống quay nổi chìm lành vỡ
Tưởng đời ta như ngọn gió không nguồn.
Chiều Ba mươi này bỗng dưng nhang khói
Mùi nhắc nhỏm cội nguồn… Tôi khóc!
Giọt nước mắt tan mát vào nền đất
Ba tôi cúng xong rồi… bỏ guốc vuốt tay trơn.

Giờ ba đã khuất, ta đã có một mái nhà riêng để đêm giao thừa cũng tự tay thắp hương và nao nao ngồi lắng tai mùi lửa hương.
Mùi hương lẻ kính cẩn của đêm giao thừa – vùng kỷ niệm mùi hương độc nhất vô nhị còn sót lại mà ta có thể giữ gìn, thực hành nghiêm chỉnh khẩn thiết mỗi năm một lần trong cuộc đời long chong tong tả.

Bánh mứt dẫu chẳng hương xưa, nhưng mùi các loài hoa vẫn không đổi thay mấy. Dẫu có học đòi theo thời thượng với những loài hoa mới nhỡ ra kiêu sa, thì vị trí trọng thể nhất trong nhà vẫn là nhành mai năm cánh, vẫn cúc và vạn thọ thật tình vàng nhãi nhép thân thương, vẫn trái dừa tươi nước trong thanh khiết, dâng cúng đất trời trong hoài niệm xa xăm…

Ta hít thở ngập lòng mùi hương bâng khuâng của đêm giao thừa cũ mới. lắng nghe tiếng cỏ cây hoa lá đất trời, tiếng của nhịp đời lặng lẽ chuyển xung quanh. Đâu đó trên bầu trời thành thị, trên ti vi… những chùm pháo hoa tỏa sáng.

thôn trang lặng yên, phố xá nhẹ bớt những âm thanh. Và mùi hương… mùi hương mỗi năm chỉ có một lần trong thời điểm thiêng liêng tỏa lan nghiêm chỉnh dịu nhẹ…

Phút giao thừa, dẫu không ít những người vẫn còn ngược xuôi tong tả ngoài đường, không ít những người phấn khởi đi rong, không có mặt trong ngôi nhà thân thương để ngồi lắng tai mùi hương khói trong thời điểm thiêng liêng ấy, nhưng đất trời vốn luôn phóng khoáng; xa xôi khói hương mãi luôn có mặt, thấm đẫm âm thầm trong những góc lòng biết nhớ…

Xem thêm : Hương lòng

Hoặc tại : https://phatphapbaodung.blogspot.com/
 
Úc châu và phật giáo

Đạo Phật đang phát triển nhanh chóng tại Úc Châu, nơi các Hội đồng Phật giáo không kịp đào tạo các ba thiện nguyện cho các trường công để đáp ứng làn sóng học trò muốn tìm học về đạo hòa bình này.

Nhiều trường công lập Úc châu có tiết học dài 30 phút về tôn giáo, trên nguyên tắc không phải là truyền đạo nhưng là giúp tìm hiểu về tín ngưỡng của nhân loại, và học trò có quyền chọn lọc để học một hay nhiều tôn giáo, hoặc chỉ học thuần túy về đạo đức học. cho nên, tía về Phật giáo tại nhiều trường công ở Úc châu không phải là giảng sư của các giáo hội.

Sau đây là bản Việt dịch, dựa vào bài viết của phóng viên Samantha Turnbull trong bản tin Anh văn “Buddhism scripture teachers struggling to keep up with demand from state schools” (Không tìm đủ các cha Phật giáo để đáp ứng nhu cầu của các trường công lập) trên thông tấn nhà nước Úc Châu ABC North Coast ngày 14/12/2016.
Các trường công lập tại bang New South Wales không đáp ứng đủ nhu cầu tìm các ba Phật giáo.

Brian White, chủ toạ Buddhist Council of New South Wales (Hội Đồng Phật Giáo ở New South Wales), nói rằng có hơn 3,000 học sinh trường công trong tiểu bang này đang học về Đạo Phật, và con số này đang tăng chóng vánh.

Ông White nói, “Làn sóng tìm học Phật giáo được thúc đẩy bởi một số tình hình – trong tầng lớp càng ngày càng nhiều người biết về thiền tập và biết về ích lợi thiền tập, và đã nhận ra rằng ngay cả các em mới 6 tuổi và 7 tuổi cũng có thể tập thiền trong vài phút đồng hồ, và hưởng được lợi ích từ đó.”

“Nhưng tự thân Phật giáo cũng có một hình ảnh khá tốt đẹp trong tầng lớp vì là một nếp sống hòa bình và thực dụng.”

Ông White nói rằng hội đồng BCNSW, nơi đào tạo các giáo viên dạy về kinh điển Phật giáo, đã có 70 đay đang tình nguyện trong các trường công ở New South Wales, nhưng đang cần thêm ít nhất 60 cha nội nữa.

Ông nói, “Chúng tôi có một danh sách các trường khắp trong tiểu bang đang chờ có thân phụ, và chúng tôi đang được nhiều trường khác liên tục thông tin rằng họ cần các đay Phật giáo cho các lớp của họ.”

Một trong các trường đang có nhu cầu cao cho các lớp dạy về Phật giáo là trường Byron Bay Public ở phía bắc New South Wales.

Hơn 150 học sinh ghi danh học về Phật giáo ở trường này, như thế là hơn ¼ tổng số học trò.

Emily Coleling, người điều hợp chương trình, đã đăng lời kêu gọi trong các thư gửi phụ huynh để tìm thêm các thầy thiện nguyện để đáp ứng nhu cầu học Phật.

Bà nói, “Tôi nghĩ rằng có lẽ chúng ta đang ở trong một khu vực có đầu óc cởi mở, vùng Northern Rivers, và Phật giáo là một đạo lan rộng mau chóng.”

“Tôi nghĩ rằng nhiều người bất như ý đang rời bỏ đạo thiên chúa vì lý do nào đó, và Phật giáo như dường cung cấp những gì đó cho họ.

“Thực tế, nhiều trẻ nít đã học luân chuyển về các tôn giáo khác nhau, bởi vậy Phật giáo là một trong các tôn giáo các em học, rồi các em có thể học về đạo Ba'hai hay về công giáo hay về đạo đức học, và rồi các em có thể tự chọn lọc – như thế đã cho thấy chính các phụ huynh trong khu vực này cũng có đầu óc cởi mở.”

Anna Halafoff, giáo sư về tầng lớp học về đạo tại đại học Deakin University, nói rằng những con số từ thống kê năm 2011 cho thấy Phật giáo là tôn giáo lớn thứ nhì tại Úc châu, chỉ sau đạo gia tô.

Tiến sĩ Halafoff nói, “Có nhiều người đã xin quy y vào Phật giáo, hay những người thực tập điều mà một số học giả gọi là ‘Đạo Phật kệ sách’, tức là bạn có thể không nói rằng bạn là Phật tử nhưng bạn có thể ưa chuộng thiền tập, hay bạn có thể ưa chuộng đọc sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma.”

“Tôi nghĩ rằng Phật giáo được ưa thích nhiều tại Úc châu, và tôi nghĩ một phần là do hình ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma được nhìn tích cực tại Úc châu.”

Xem thêm :

Ba căn lành chẳng thể cùng tận

Biển trời lai láng

Em về nhớ giùm anh

Hoặc tại : https://baihocungdungcuocsong.blogspot.com
 
Cánh én mùa xuân

Lại một mùa đông nữa đến. Cái lạnh tái tê như ngàn mũi kim châm vào da thịt. Có khi cái lạnh len lách vào tận cùng lòng người. Đôi lúc nó như đột châm thẳng vào trái tim buốt nhói từng cơn. Gió rít lên từng chặp, tiếng gió tựa như bà lão đau răng rên hừ hừ. Đôi môi Thu tê cóng, hai hàm răng va vào nhau bần bật.

Cô thở ra, rồi lấy hai bàn tay khum lại hứng lấy xoa xoa cho ấm. Năm nay cái lạnh đến sớm hơn và theo như dự báo – mùa đông sẽ kèm theo nhiều cơn mưa và những đợt áp thấp nhiệt đới xen kẽ. Mùa đông, là mùa của lứa đôi yêu nhau và tìm về nhau để sưởi ấm. Đó cũng là mùa cưới. Là mùa những đàn chim thiên di đi tìm miền đất hứa. Còn với Thu – lại là mùa đơn chiếc.

Thu dồn những cành hoa còn lại trong ngày vào một cái thùng. Cô dọn vệ sinh thau chậu, để chuẩn bị cho ngày lấy hàng sớm mai. Hôm nay cô bán cũng tàm tạm. cốt yếu là hoa Cát tường, Lạy ơn hồng và đỏ, nhiều nhất vẫn là các nhánh Lan. huê hồng dường như ít ai mua vào mùa này, trừ là khách mua theo đơn đặt hàng.

Lượng huê hồng còn hơi nhiều. Loài hoa minh chứng cho tình yêu, nhưng ái tình qua hoa tuồng như cũng đã mai một trong thời đại chuộng kỹ thuật và thực dụng. nào

– Nhung hồng với cánh hoa pha sắc tím dịu dàng. Hồng vàng như một nàng tiểu thư kiêu kỳ con nhà cành vàng lá ngọc. Những cánh Hồng tiểu muội có phần dân dã, thân thiện hơn. Đặc biệt, vẫn chẳng thể sánh với loài Nhung đỏ. Loại này hoa lớn, cánh dày, thân to lá xanh đậm.

Nàng Nhung đỏ giương những cái gai sắc nhọn, lại còn hơi khum xuống giống như câu liêm, màu nổi trội. Những móc gai ấy, chàng trai nào bị nàng móc phải không để lại thương tích thì cũng xuýt xoa tí đỉnh:

- Mi đẹp thế này mà ít ai để mắt tới, có phải mi quá tự kiêu, tự kiêu – rằng ta “ nữ hoàng của các loài hoa.” Ta chỉ dành cho các đấng minh vương công tử. Còn các thần dân thì đừng hòng có ý mơ mộng tới chứ gì. Thật trớ trêu! Mi càng đẹp thì lại càng đơn chiếc hơn…”

Nhánh Nhung rung chuyển trong tay cô như chơi đồng tình với lời kết luận ấy.

- Thôi được – Mi không tán đồng thì thôi! Cô lặt bớt những cánh hoa bị dập kém sắc, để chúng lúc nào cũng tươi rói, tinh quái. Cô vẫn thường trò chuyện với chúng như người bạn, bởi cô biết chúng nghe và hiểu được. Cô vừa làm vừa trò chuyện không chú ý một người khách mới bước vào.

- Chào cô, này cô ơi… ơi – Cô có thể cho tôi một bó hoa đặc biệt… Tiếng ông khách hỏi sang lần thứ hai cô mới giật mình quay lại.

- Chào ông. Ông cần mua gì ạ? Xin lỗi tôi không để ý – Cô trả lời.

- Cô cho tôi một bó, nhưng nó phải bao hàm được nghĩa: “Thật cao sang nhưng đừng quá lộ liễu, đầy ắp tình thương và bao dong, một tí ngượng ngùng của cô gái, một chút của mệnh phụ phu nhân. Thêm một tẹo hương đồng gió nội…”- Ông khách nói yêu cầu của mình. Đôi mắt không ngớt nhìn Thu, vừa như đợi chờ, vừa như giải bày lòng mình.

- Theo yêu cầu của ông, có nhẽ tôi sẽ phải gói hết cửa hàng hoa này mất – Cô đùa và nhìn ông khách đầy huých xen một tí đo đắn, lạ lẫm.

- Xin ông vui lòng đợi một lát. Cô nói và nhìn lại ông khách một lần nữa để khẳng định đây không phải là một yêu cầu đùa bỡn như một đôi người tới mua hoa tán tỉnh. Không hiểu sao, Thu chợt nhận ra nơi lòng mình một niềm vui, ấm áp, mới lạ!

- Phải mất nửa tiếng sau cô mới gói xong bó hoa đặc biệt đó. mặc dầu nó không đầy đủ lắm. Cô ôm bó hoa trân trọng trao cho ông khách và nói:

- Lẵng hoa này ông phải tặng cho một người thật đặc biệt. Nhưng ước gì… Cô bỏ lửng câu nói.

- Sao, cô nói sao? Ông khách ngạc nhiên hỏi lại. Nét tươi vui hiện rõ trong ánh nhìn ngập tràn xúc cảm và hy vọng của ông.

- Ồ! không có gì. Chúc ông vạn sự may mắn – Cô bẻn lẻn
nói lời tiễn khách.

- Cám ơn cô – Ông khách đáp lễ. Ra đến cửa ông còn tần ngần quay lại muốn nói thêm điều gì đó, nhưng lại lặng im bước đi. Thu nhìn theo ông, mơ hồ hiểu ông khách muốn nói điều gì với mình. Ông đã đi xa, nhưng trong cô dào dạt một niềm luyến nhớ, ngẩn ngơ…

Xem thêm : Đặt tâm đúng hướng

Hoặc tại : https://baihocdedoi.blogspot.com
 
Một góc vắng lặng

Hãy mường tượng, nơi một vỉa hè thành thị New York, nơi ồn ã không ngưng với đủ thứ âm thanh. Và ngồi phệt dưới đất, lặng lẽ ở một hè phố, là một vị sư và một số người Mỹ đang thiền tập, bất kể người đi bộ lướt qua trước mặt, bất kể xe chạy vù vù dưới đường, và bất kể xe điện chạy ầm ầm gần đó. Họ là những mảng rất là bình an, vắng lặng giữa một thị thành không ngừng chuyển động.

Chúng ta đang sống trong một thế giới hỗn loạn và ồn ã. Những tiếng động vang lên khắp nơi, không ngừng. Tiếng xe chạy, tiếng máy TV, tiếng nhạc hắt ra từ quán xá, tiếng rao ngoài phố, tiếng gió kêu, tiếng sóng biển, tiếng xe lửa, và vân vân. Gần như, không thể tìm được giây phút nào vắng lặng nơi thành phố.


Đặc biệt, là ở những đô thị thức mãi 24 giờ như New York. vì thế, một nhóm khoa học gia từ đại học NYU, làm việc chung với các khoa học gia ở Ohio State University, bắt đầu nghiên cứu về tình hình ô nhiễm tiếng ồn ở New York, với dự án sẽ kéo dài nhiều năm với tên là Sounds of New York City (SONYC), với tài trợ 4.6 triệu đô từ National Science Founda-tion.

Một cuộc nghiên cứu nhiều năm trước đó về ảnh hưởng tiếng động thành phố đã cho thấy rằng tiếng ồn đang làm nhiều người dân suy giảm thính lực, sức khỏe yếu hơn, khả năng học chậm hơn và dễ có thái độ đối kháng xã hội.
Tiến sĩ Alice H. Suter, chuyên gia về âm thanh học ở viện National Institute for Occupa-tional Safety and Health, ghi nhận rằng tiếng ồn gây ra sự găng tay, nhưng “xã hội chúng ta chấp nhận tiếng ồn như cái xấu cần thiết,” và rồi mọi người xem như tiếng ồn là một phần của môi trường không gạt bỏ được.

Suter nói rằng có hơn 20 triệu người Mỹ mỗi ngày tiếp cận với môi trường âm thanh ồn tới mức làm suy giảm thính lực, nghĩa là âm thanh cao hơn 80 decibels, tức thị ngang với tiếng ồn của một máy hút bụi, hay máy cơ khí điện, hay khối lượng xe cộ đông đúc.

Tiếng ồn cũng ảnh hưởng tới áp huyết máu, theo một số thể nghiệm với loài khỉ rhesus monkeys và huyết áp vẫn cao kể cả khi tiếng ồn chấm dứt.

Phải chăng, đó là một trong các lý do nhiều Phật tử quyết định đưa thiền tập tới đường phố và tới các trạm xe điện ngầm ở thành phố New York, vừa để hoằng pháp, vừa để tự vệ, vừa giúp nhau giữ sức khỏe cho thân và tâm?

tập san Lion’s Roar hôm 16/11/2016 có bản tin của Sam Littlefair ghi nhận hiện tượng này.

Một tổ chức mới lập và lan rộng nhanh chóng có tên là Buddhist Insights đang tìm cách giúp người dân New York tập thiền ở những nơi bất ngờ nhất – và một phần thiền tập là, làm bạn với những gì chung quanh mình.
Bài báo viết rằng dân New York có thể không nghĩ rằng các đường phố thô nhám gạch đá là nơi để tìm bình an nội tâm, nhưng nhóm Buddhist Insights đang nhắm đổi thay các nghĩ suy đó.

Một người đồng sáng lập Buddhist Insights là Giovanna Maselli nói rằng, “Người ta nói rằng bạn phải xa lìa New York để tìm bình an và vắng lặng.” Để thách thức nghĩ suy đó, cô và người đồng sáng lập là nhà sư Bhante Sud-dhaso đã tổ chức các lớp thiền tập ở các địa điểm bất thường trong thành thị. Người ta gọi đó là “nhập thất trên đường phố.”

Maselli nói, “Nhập thất trên phố lúc đầu như là chuyện vui đùa. Nhưng rồi có nhiều phản ứng hăng hái. nhân dân nhận ra rằng họ có thể thiền tập ở bất kỳ nơi nào.”

Buddhist Insight tự định ra nhiệm vụ là nối kết dân New York với các nhà tu Phật giáo. Ma-selli giảng giải rằng khi cô muốn tìm một vị thầy hồi năm 2015, cô chẳng gặp ai cả. thành thử cô hiệp tác với Suddhaso, một nhà sư Phái Lâm Truyền của Theravada để lập tổ chức này.

Nhà sư và cô Maselli gần như tình cờ khám phá ra khái niệm mở các lớp thiền tập trên đường phố.

Thế rồi cô Maselli và nhà sư Suddhaso bắt đầu mở các lớp hàng tuần tại nhiều nơi ở New York City: các nhà thờ, các phòng tranh, các bờ biển, các hè phố, các trạm xe điện ngầm, các công viên và bất cứ nơi nào cho họ ngồi tự do.

Nhà sư Suddhaso giải thích rằng chỉ là vấn đề thiết lập một thái độ để thiền tập bất cứ nơi nào và làm bạn với môi trường chung quanh, “Thường thì, khi chúng ta tập thiền và có tiếng ồn bên ngoài, chúng ta nghĩ suy, ‘Ồ, tôi có thể thiền tập nếu không có tiềng ồn kia.’ Vấn đề không phải là tiếng ồn. Điều quấy rối việc thiền tập của bạn là thái độ đối với tiếng ồn: tiếng ồn chỉ là tiếng ồn. bởi thế, chúng ta thiết lập thái độ tụ hội vào chốc lát ngày nay và dùng nó như phòng thử nghiệm của bạn để khảo sát tâm mình. Đó là điều bạn có thể làm bất kỳ nơi nào, với bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào.”

Xem thêm : Du tâm lãng tử

taị : https://baihocungdungcuocsong.blogspot.com
 
Những cành đào trong ký ức

Thuở ấy những cô học sinh bé nhỏ trường tôi, thường hay nhặt những trái mai chín rụng bên hạ, tô lên mười đầu móng tay làm dáng. Những trái mai anh đào Dalat khi chín, sắc tím đỏ thẫm, mọng nước cắn vào sẽ thấy một vị hơi đắng, thường khi rụng nhiều, bước chân qua đó dẫm lên, còn làm loang tím cả lề đường.

Mùa thu năm ấy, khi tôi chuyển trường về Saigon là thời gian trước nhất của thời trung học. Sân trường nơi đây nóng bức, thiếu hẳn những bóng cây và dạo đó trong sân trường không mấy ngày là thiếu vắng mùi lựu đạn cay bay vào lớp học. Đó là mùa của những đổi thay chính biến, mùa của lớp lớp sinh viên, học trò thi nhau xuống đường bãi khóa… Sống trong vận hội mới, và có nhẽ nếp sống nơi đô hội cũng dần dần làm tôi bắt đầu quên đi màu hoa xứ Anh Đào từ dạo đó.


Cho đến mãi ít năm sau, vào một hôm mùng một Tết, tôi đến chúc Tết một gia đình người bạn, thì chao ôi đó lần trước nhất tôi được mục kích ngay giữa phòng khách bày biện thật trọng thể một cành bích đào thật tươi thắm, đặt trong một chiếc bình sứ cổ, an vị giữa phòng. Bạn tôi cho biết: “Đây là bích đào Nhật Tân, do người quen trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến mới từ ngoài Hà Nội mang vào tặng.”

Dạo ấy tôi chưa biết thưởng thức thế này vẻ đẹp của cành đào. Tôi nào đâu đã biết phân biệt thế này đào kép, đào ta, đào phai ăn quả, đào ghép! Nào đâu đã biết cái đẹp của bích đào là phải từ thân gốc xù xì, chồi ra những cành nhánh gầy guộc, hay những cành đào thế, có dáng hiên ngang như thế người quân tử hoặc những cành đào già, da mốc như rêu cau.

Nghe nói cành đào gọi là đẹp, trước hết phải còn tùy ở cái dáng, cái thế của nó. Phần gốc sần sùi cho ta cảm giác về sự vững bền của nền móng, cái cốt cách sương kính của người quân tử, chẳng thế mà người xưa đã nói: mai cốt cách, tuyết ý thức. Những cành, nhánh không nên xum xê quá nhiều, để tạo ra cảm xúc thảnh thơi., khoáng đạt. Lúc ấy tôi chỉ thấy cành bích đào kia sao mà ranh con thế, một món quà quá hiếm lạ, đến từ nửa bên kia phần sơn hà, đang tưng bừng khoe sắc trong những hôm Tết nóng bức của miền Nam.

Phải đợi cho mãi đến khi sang Nhật du học, mùa xuân trước nhất năm đó, tôi mới thật sự được chiêm ngưỡng và biết thế nào là hoa Anh Đào xứ Phù Tang. Hoa Anh Đào Nhật Bản đẹp thật! Chúng tôi là những kẻ du sinh, lần trước tiên lạc giữa rừng hoa. Anh Đào nở rộ khắp mọi nơi, từ những chốn đền đài cung điện, cho đến những công viên rộng bao la, những cánh rừng Anh Đào bạt ngàn toàn sắc một màu trắng chỉ hơi phơn phớt một tí sắc hồng, trông xa như những đám mây trắng nõn ửng hồng, bập bềnh nhẹ trôi theo từng làn gió xuân lướt trên những thảm cỏ xanh. “Sakura, sakura...”

Cô giáo Nhật Ngữ đã dạy và tập cho chúng tôi cùng hát bài dân ca này. ước chừng những ai đã từng một thời là sinh viên du học Nhật Bản mà không nhớ mãi bài hát ấy. Âm điệu bài hát êm đềm như sự hài hòa giữa con người và tự nhiên, một xứ sở thật thái hoà, đệm vào đấy tiếng đàn Samisen trầm bổng như quyện vào những động tác uyển chuyển của vũ điệu đón mừng Anh Đào nở mỗi độ đầu tháng Tư. Phải đi thưởng lãm hoa Anh Đào nở trong những dịp lễ hội Hanami như thế, mới thấy được dân tộc Nhật Bản yêu thích và sùng kính biểu trưng Sakura của xứ sở họ như thế nào.

Và đấy cũng dịp cõi trần được ngắm nhìn những thiếu nữ Nhật Bản xúng xính trong những bộ Kimono cựu truyền lộng lẫy. Mầu sắc nhãi ranh từ những chiếc áo Kimono sặc sỡ, nổi trội bên cạnh từng cánh rừng Anh Đào bát ngát, phơn phớt hồng như một giải lụa bập bồng, nhẹ trôi trên bầu trời xanh biếc. Bức tranh thiên nhiên sinh động ấy với những nét chấm phá thật hài hòa tuyệt mỹ, thỉnh thoảng đây đó vài cơn gió nhẹ đưa về, làm hàng vạn cánh hoa Anh Đào lăn tăn nhẹ nhõm bay trong gió, như những hạt tuyết phong phanh tựa tơ trời, đậu hờ trên vai áo mĩ nhân...

“Tam thập niên tiền, nhị thập tam.” Thuở ấy chúng tôi và những buổi bình minh của tuổi trẻ đã cùng nhau hăng say, ngạo nghễ xuất phát. bao lăm điều hay, nét đẹp nơi xứ người, đã tràn đến làm chúng tôi choáng ngộp và lưu lại trong tâm hồn tôi, kẻ du sinh, bao ấn tượng. Nhưng trong ký ức tôi, không phải mùa Anh Đào nào nơi xứ Phù Tang lúc nào cũng thuần tuý tươi sáng như mùa Xuân tràn ngập hạnh phúc, không phải lúc nào cũng yên ả bên cạnh những thảm cỏ non còn in nhẹ dấu hài.

Có một dạo tôi cũng đã trải qua những ngày nghỉ đông khốn cùng, buốt giá nơi những công viên cần được trùng tu, khi ấy từng thảm cỏ đã thôi xanh, chung quanh chỉ còn lại toàn một màu vàng rạ héo úa. Tôi đã làm bạn với bao gốc cội Anh Đào. Hai bàn tay thư sinh của chàng du sinh xứ Việt lần hồi cũng biết chăm sóc những cây anh đào, cũng biết khéo léo quấn tầng lớp rơm bao phủ quanh thân cây, từng cành đào, dùng sợi dây thừng cuốn chặt lại, rồi thầm lặng nhắn nhủ: “Cuốn rơm cho khéo nhé, Giữ ấm buổi đông thì, Xuân về hoa hé nhụy…!”

Xem thêm : Mặt thật cuộc đời

Hoặc tại : https://baihocungdungcuocsong.blogspot.com
 
Trung Đạo - kẻ ác hại người hiền

Ở đời đừng tìm cầu những việc quá sức. Quá sức thì việc không thành quả, không thành tựu thì phiền não rầu buồn phát sanh.

Lại chớ nên biếng lười. Biếng lười, thì việc không thành thường sanh tâm hối tiếc, việc đã muộn, thời đã qua.

Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có câu chuyện, nay tôi xin kể lại các anh chị trưởng toàn thể đoàn sinh lắng nghe và khó thực hành.
“Thuở Phật còn tại thế, một đêm có thầy Sa Môn tụng kinh Di Giáo của Đức Phật Ca-Diếp. Tiếng tụng gấp rút và buồn bã. Thầy nghĩ hối hận muốn thoái bước, bỗng thấy Phật tiến về phía thầy, thái độ hào phóng, thảnh thơi, khi gặp nhau Phật ân cần hỏi rằng:

- Ngày trước còn tại gia, ngươi từng làm việc chi?

- Bạch Thế Tôn, con làm nghề khảy đàn cầm ạ.

- Thế dây chùng quá thì nên làm thế nào?

- Bạch Thế Tôn, dây chùng quá đàn không kêu.

- Thế dây căng quá thì sao?

- Dây căng quá, bạch Thế Tôn, đàn bặt tiếng mất ạ.

- Thế chẳng chùng, chẳng căng dây trương vừa phải thì thế nào?

- Bạch Thế Tôn, trương vừa phải thì sờ soạng các âm thanh đều đầy đủ.

- Thầy Sa môn học đạo cũng lại như vậy. Nếu tâm được điều hòa vừa phải thì mình có thể đạt đạo. Còn đối với đạo tâm mình cáu kỉnh thì thân phải mỏi mệt ý sanh buồn phiền. Việc hành đạo vì thế thoái hủ. Tội tăng trưởng, vậy nên thanh tịnh an lạc thì đạo không mất.”

Nhờ lời giáo huấn ấy mà không bao lâu sau vị Sa môn chứng đặng quả A La Hán.

Tinh tấn bất thoái nhưng không nên nóng thầm lặng mải mê làm việc chánh thiện. Cứu cánh niết bàn trong tầm tay mình vậy.

KẺ tai hại NGƯỜI HIỀN

Vô cớ quấy phá người đã là điều quấy. Tác hại đến kẻ hiền lương lại càng quấy hơn.

Trong kinh Pháp Cú ví dụ có thuật lại một câu chuyện làm tỏ rõ nghĩa ấy. "Lúc Phật còn tại thế. Ngày kia có một người thợ săn vào rừng tìm mồi cùng với đàn chó dữ. Trên đường đi anh gặp một tăng sĩ. Trong suốt buổi anh không săn được gì. Lúc trở về anh gặp vị tu sĩ ban sáng.

Anh nghĩ rằng vì gặp tu sĩ nên xui xẻo. Anh tức giận xua đàn chó tấn công vị tăng, vị tăng liền trèo lên cây. Anh lấy tên bắn vào chân vị tăng. Đau quá vị tăng loay hoay trên cây làm rớt cái y phủ trên người thợ săn. Anh chàng lo gỡ cái y ra, đàn chó ngỡ là người tu sĩ rớt xuống nên bu vào cắn xé. Một lúc sau người thợ săn chết ngay tại chỗ.

Khi đàn chó kéo nhau về cả, tăng sĩ mới tụt xuống cây sửa thi hài người thợ săn nằm ngay thẳng, lấy y đắp lên trên rồi trở về tịnh xá bạch Phật nguồn cơn câu chuyện xin Phật chỉ dạy cho: Hành động như vậy có gây nên cay nghiệt không?

Phật dạy: “Kẻ nào xâm phạm người ôn hòa trong lành vô tội, quả dữ dội trở lại kẻ cuồng dại ấy, như tung cát bụi ngược chiều gió, cát bụi sẽ bay vào mắt."

Chỉ có hành động nhân hậu hòa ái biết nhẫn nhục, chịu đựng, can đảm, dám hy sinh vì đại nghĩa mới đem lại mâm vị an lạc, tươi vui và hạnh phúc.

Xem thêm :

Quê hương ơi mưa bay

Mưa tháng chạp

Hay tại : https://baihocdedoi.blogspot.com
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top