• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Tên gọi của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

Trang Dimple

New member
Xu
38
Tên gọi của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử


1. Thời Hồng Bàng


Xích Quỷ: Thời Kinh Dương Vương vào năm 2879 TCN

Văn Lang
: Thời Hùng Vương


Âu Lạc
: Thời An Dương Vương


2. Nam Việt

(thuộc)Nam Việt: thời nhà Triệu, vương quốc Nam Việt gồm lãnh thổ Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây

3. Thời Bắc thuộc


Giao Chỉ bộ: Bắc thuộc thời Hán, bộ Giao Chỉ gồm miền bắc Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây

Lĩnh Nam
: Giai đoạn độc lập ngắn ngủi dưới thời Hai Bà Trưng, năm (40 - 43)


Giao Châu
: Bắc thuộc từ thời nhà Đông Ngô đến nhà Đường


Vạn Xuân
: Giai đoạn độc lập ngắn dưới thời nhà Tiền Lý năm (542 - 602)


An Nam
: Bắc thuộc thời Đường (618-866)


Tĩnh Hải quân
: tiếp tục trong thời thuộc Đường qua thời Tự chủ tới hết thời nhà Ngô (866-967)


4.Thời phong kiến độc lập



Đại Cồ Việt: Nhà Đinh - Tiền Lê và đầu thời Nhà Lý, từ 968 - 1054

Đại Việt
: Nhà Lý - Nhà Trần, từ 1054 - 1400


Đại Ngu
: Nhà Hồ ("Ngu" nghĩa là "hoà bình"), từ 1400 - 1407


Đại Việt
: Nhà Hậu Lê - Nhà Tây Sơn và 03 năm đầu thời nhà Nguyễn, từ 1428 - 1802


Việt Nam
: Nhà Nguyễn, từ năm 1804 - 1839


Đại Nam
: Nhà Nguyễn, từ năm 1839 - 1887


5. Thời Pháp thuộc


(thuộc)Liên bang Đông Dương: Từ năm 1887, Pháp chia Việt Nam ra làm 3 xứ tương đương với 3 vương quốc là Tonkin (Bắc kỳ), Annam (Trung kỳ), Cochinchine (Nam kỳ), cả 3 đều nằm trong Liên bang Đông Dương


6.Giai đoạn từ năm 1945 đến hiện nay


Đế quốc Việt Nam
: tháng 4 năm 1945 - tháng 8 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim


Quốc gia Việt Nam
: 1949 - 1955 với quốc trưởng Bảo Đại do Pháp dựng lên


Việt Nam Cộng hòa
: tồn tại từ 1955 đến 30 tháng 4 năm 1975 tại miền Nam


Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976


Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
: từ ngày 2 tháng 7 năm 1976 đến nay.


nguồn vnkienthuc.com*
 

beobeo_success

New member
Xu
0
Xích Quỷ

Nhân nói về nước Xích Quỷ, tớ có vài đóng góp. :D

Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼) tục truyền là quốc hiệu của đất nước, được xem là cội nguồn của Việt Nam, vào thời Kinh Dương Vương. Xích nghĩa là đỏ, chỉ phương Nam. Theo Kinh Dịch, Phương Nam là nơi văn minh.
Theo truyền thuyết, nước Xích Quỷ của các bộ tộc Việt cổ (Bách Việt) được hình thành vào năm 2879 TCN có lãnh thổ rộng lớn nằm ở phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc), phía bắc giáp hồ Động Đình (Hồ Nam - Trung Quốc), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên - Trung Quốc), phía đông là biển và phía nam là nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này).
sodocodai.jpg

Văn Hóa Lương Chữ Trải Khắp Bách Việt



VanHoaNBLV với Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đã được Viet Roots cho xem một số cổ vật Lương Chữ và cuộc khảo sát sơ khởi này được thực hiện vào ngày 22 tháng 07 năm 2011 tại Thành phố Santa Ana, Southern California, Hoa Kỳ.

"Kinh Dương Vương cai trị nước Xích Quỷ truyền đến đời Hùng Vương lập nước Văn Lang với bờ cõi rộng lớn Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình Hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (Chiêm Thành) chia nước làm 15 bộ..."

Câu chuyện nói trên tưởng như huyền thoại được ghi trong sách Dã sử Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp (1370-1400) bỗng nhiên được minh chứng bằng cổ vật thời Đồ Đá Mới, được ông Shi Xingeng đào được ở làng Lương Chữ (Liangzchu), Chiết Giang vào năm 1936. Từ sự khai quật này các học giả Hoa Kỳ và Trung Hoa đã gọi tên là Văn Hóa Lương Chữ.

Điều lạ lùng là các cổ vật Lương Chữ đã trải rộng khắp Miền Gió Mùa, gắn liền với Văn Minh Luá Nước và chăn nuôi gia súc là đất cũ của nước Cổ Việt (Bách Việt) tương ứng với việc Sử gia Tư Mã Thiên (145 năm trước Công Nguyên) mô tả "Năm Tân Mão (1109 trước Công Nguyên) đất Việt là Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Châu, Nam Hải, Nhật Nam đều là phần đất của dân Việt xâm mình, cắt tóc để tránh giao long làm hại..."

Về Văn Minh Lúa Nước, lý thuyết của Tiến sĩ Madeleine Colani khai quật thóc hóa thạch ở Hòa Bình Việt Nam từ năm 1920 đến 1927 nói rằng nền Văn Minh Hòa Bình có từ hàng ngàn năm trước Công Nguyên.

Lý thuyết của Colani tiếp đó được Tiến sĩ Solheim II của Đại Học Hawaii của Hoa Kỳ xác nhận năm 1971 là Văn Minh Hòa Bình có từ 15 ngàn năm trước Công Nguyên; hai nền Văn Hóa Long Sơn (Longshan) và Ngưỡng Thiều (Yangshao) đều có gốc ở Văn Hóa Hòa Bình.
 

beobeo_success

New member
Xu
0
Nguyên Nguyên

NƯỚC XÍCH QUỶ

Viết xong 3 bài Hùng Vương, chúng tôi định nghỉ xả hơi một thời gian. Nhưng, bất cứ độc giả nào đều có thể thấy vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết thỏa đáng, hoặc giải thích với ít nhiều sức thuyết phục, trong cái thuyền thuyết hết sức đồ sộ này. Cộng vào đó một nỗi tức bực vì phải làm công việc khá cực nhọc, có thể đưa đến 'tẩu hỏa nhập ma' như chơi, mà đáng lẽ nhiều vị tiền bối hay đương thời phải giải quyết từ lâu. Tuy nhiên, công việc giải mã đó đã đem lại không ít hứng thú cho người viết. Bởi thật sự viết lại được ý nghĩa của truyền thuyết dựa trên hiểu biết về văn minh Hoa và Việt, nhất là Hoa, cũng giống như việc thu lại được lợi nhuận sau bao nhiêu năm tốn tiền của và thì giờ, say mê xem truyện Tàu, truyện chưởng Kim Dung, phim kiếm hiệp Hong Kong, và những sách vở từ Đông sang Tây, đã đọc được và học được từ trước đến nay.

Từ đó, như có một sợi dây ràng buộc đã bắt buộc phải viết cho xong việc 'giải mã' một truyền thuyết xưa cũ nhất, với một tầm quan trọng rất lớn. Bởi hiểu rõ được truyền thuyết, chúng ta có thể yên tâm hơn về hồ sơ lý lịch căn cước của chính mình. Tuy nhiên bắt buộc phải nhìn nhận, khám phá quan trọng nhất đã mạnh mẽ thúc đẩy chúng tôi phải làm cho xong việc này chính là cái truyền thuyết 'con rồng cháu tiên' đó, chỉ trong vòng vài đoạn văn xuôi ngắn, lại hết sức phức tạp và súc tích. Vượt xa bất kỳ bộ tiểu thuyết nào mà người ta thường ưa thích nhất từ trước đến nay. Kể cả những bộ truyện chưởng của Kim Dung. Xin nhấn mạnh, chỉ về mặt phức tạp và súc tích. Nó đã cho thấy các tác giả truyền tích này hoàn toàn không phải 'tay vừa', mà là những thứ cao thủ đã đạt đến mức 'tam hoa tụ đỉnh' như cỡ Trương Tam Phong hay Phong Thanh Dương, hoặc ba vị cao tăng Thiếu Lâm, trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung.

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN CỦA TRUYỀN THUYẾT

Như những bài đầu đã phân tích, truyền thuyết 'Âu Cơ' thoạt nhìn có vẻ như rất giản đơn, không có gì có thể gây thắc mắc, nhưng thật sự nếu quan sát kỹ, nó giống như các quyển võ công bí kíp trong các truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Tràn đầy những lối nói ẩn dụ, lối 'fast forward' (quây băng video nhanh), các ý niệm rất sâu sắc trong đó có ý niệm giống như 'nhảy vọt quantum' của Max Planck, và những thông điệp ẩn tàng khá kỳ bí. Nó ghi lại hết nguồn gốc dân tộc Việt Nam, cũng như những vấn đề khó khăn ở thời buổi ban đầu.

Cái gút lớn và phức tạp nhất của truyền thuyết kì bí này nằm trọn ở chỗ 'phải xác định cho thật đúng thời gian và không gian của diễn biến câu chuyện'.

Chúng tôi đã minh chứng bằng một bảng đối chiếu trình bày trong bài thứ 2, thời điểm xảy ra câu chuyện chính là thời Xuân Thu Chiến Quốc ở bên Tàu (770-221 TCN), và chốn không gian của truyền tích ban đầu được dựng nên tại nước Sở, hoặc địa bàn sinh hoạt của hai chủng Thái-cổ và Việt-cổ, cả hai đều thuộc vào một khối thường được người Hoa gọi nôm na: khối Bách Việt (Bai Yue).

Qua hai bài trước, chúng ta đã thấy:
1. Có một khế ước bất thành văn thảo tại nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến Quốc, kêu gọi sự hợp chủng giữa Âu và Lạc, cùng toàn thể các chủng thuộc khối Bách Việt khác, để cùng chống lại chủng Hoa. Chủng Âu (Thái), đại diện bằng Âu Cơ, sẽ nắm vai trò lãnh đạo. Tương ứng với truyền thuyết, các chủng 'rợ' thuở đó còn theo mẫu hệ.

2. 'Minh chủ' của khối Bách Việt chính là nước Sở, một nước do nhà Châu thành lập với đông đảo dân chúng thuộc khối rợ Yueh (Việt), nhưng 'chính quyền' của nước Sở do đa số người thuộc chủng Hoa lãnh đạo. Một vài đời vua Sở có lai chủng Yueh [1] [2]. Chính sách của nước Sở cũng khá phức tạp. Một mặt làm 'phên dậu' cho nhà Châu, đàn áp và tiêu diệt các bộ tộc rợ Yueh ở trong nước và chung quanh để bành trướng lãnh thổ. Mặt khác, dựa vào lực lượng dân quân phần lớn là rợ Yueh, ra sức cạnh tranh với các nước khác thuộc chủng Hoa, nhất là Tần, và dòm ngó 9 cái đỉnh của nhà Châu [3] [4].

3. Thành phần chủ lực của nước Sở thời mới dựng nước chính là chủng Thái (Âu). Vài trăm năm sau, nước Thục, một nước lớn cũng thuộc chủng Thái ở phía Tây bị nhà Tần tiêu diệt. Người chủng Âu tức Thái từ Thục di cư về Sở, và xuống phía Nam hội nhập với dân Tây Âu. Lẫn lộn trong các đoàn người di tản đó, hoặc từ chốn khác đổ xuống, cũng có một số thuộc tộc Lạc Việt, tiểu chi Đông Di, thường gọi nhóm Bộc Việt hay Bách Bộc. Nhóm Bách Bộc này chính là nhóm chủng Lạc có mặt lâu đời tại miền Hoa Bắc (phía Bắc sông Dương Tử).

4. Nước Sở về sau trở nên hùng mạnh, nới rộng lãnh thổ đến tận bờ biển phía Đông - bao gồm 2 nước Việt (của Câu Tiễn) và Ngô (của Hạp Lư / Phù Sai). Phần đất ban đầu của Sở gọi là đất Kinh (tức Kinh Việt hay Kinh Man). Và phần đất phía Đông, tức vùng đất của hai nước Ngô Việt hồi trước, bao gồm phần lớn chủng Lạc có tên đất Dương. Từ đó truyền thuyết dựng nên nhân vật Kinh Dương Vương dùng để chỉ người xứ Kinh và Dương hợp lại với nhau.

5. Hai chủng Thái - Việt này nắm tay nhau chạy giặc và đàn áp khủng bố gây nên bởi chủng Hoa, bởi chính quyền nước Sở, bởi chiến tranh khắp nơi,... xuống tuốt đến đồng bằng sông Hồng rồi định cư tại đó. Diễn biến từ lúc có khế ước hợp chủng đoàn kết cho đến lúc tới bình nguyên sông Hồng xảy ra trên dưới 1000 năm, trước Công Nguyên. Đúng vào thời điểm nhà Châu thay thế nhà Ân (Thang), kéo dài qua thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-221TCN), cho đến lúc nước Nam Việt bao gồm 2 chủng nói trên bị nhà Hán dứt điểm vào năm 111 TCN.

6. Cao điểm của cuộc chiến tranh chống xâm lược và đồng hoá của chủng Hoa chính là cuộc chiến 'anh dũng' của quân dân chủng Thái tại xứ Tây Âu, với địa bàn tỉnh Quảng Tây ngày nay và các vùng lân cận. Cuộc chiến này đã được ghi đầy đủ trong sách sử cổ của Tàu, nhất là quyển Hoài Nam Tử của Lưu An, cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang.

7. Hợp đồng hợp chủng và đoàn kết giữa hai chủng Thái và Việt cuối cùng bị xé bỏ. Đó chính là lúc Âu Cơ ly hôn với Lạc Long Quân dẫn 50 người con về miền núi và Lạc Long Quân dẫn 50 người con kia xuôi về miền đồng bằng gần sông gần biển. Trên chiều hướng dùng nhân vật và hành động nhân vật để thay, hoặc biểu tượng cho sự kiện, ta có thể thấy việc cãi vã giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ, rồi dẫn đến chia ly, cũng giống như việc gia đình phải phân tán khi phải di tản hay chạy giặc. Âu Cơ đại diện cho khuynh hướng bảo thủ đem con trở về quê hương của mình, tức địa bàn rừng núi của chủng Thái-cổ. Lạc Long Quân dẫn đám con kia xuống vùng đồng bằng để 'dựng nước', chạy theo trào lưu 'phụ hệ' của Hoa chủng, và truyền 'chính quyền' theo lối thế tập.

8. Cũng có thể giải mã sự chia tay giữa bà Âu và ông Lạc theo dạng: Thế lực đô hộ Bắc phương sau khi đã bình định được xứ sở của hai chủng Âu và Lạc, đã chia cắt nước Nam Việt ra làm hai. Phía Bắc bao gồm chủng Âu chủ lực, gọi Quảng Châu. Phía Nam mang tên Giao Châu, gồm đa số dân chủng Lạc. Riêng tại Giao Châu, việc chia ly cũng được thể hiện bằng chuyện có rất đông một số người, với chủng Âu (Thái cổ) chủ lực, kéo lên miền núi rừng sinh sống, rồi lâu năm hợp với các chủng địa phương như Negrito (dân lùn tóc quắn) và Melanesian (dân đảo da đen), trở thành người Mường. Phần còn lại ở vùng đồng bằng trở thành người Kinh.

9. Cả hai bản của truyện tích Mường và Việt đều ghi rõ hai chủng Thái và Việt cổ đều theo mẫu hệ. Điều này rất hợp lý, bởi khi di tản xuôi Nam, cả hai chủng đều đi một lượt với nhau. Chủng Âu, tức Thái cổ, còn theo mẫu hệ, với chứng tích các con trai đều không theo họ cha lẫn họ mẹ, như Sùng Lãm con của Lộc Tục (xem bài số 2). Hai bộ tộc, một Âu một Lạc cùng di tản với nhau thì không cách gì chỉ có bộ Âu còn giữ mẫu hệ mà thôi. Chỉ ở đoạn cuối của bản Việt, các tác giả đã gượng ép thay đổi một số chi tiết để ám chỉ chủng Việt đổi ngay sang phụ hệ, vào lúc chia tay. Bằng cách cho con trường, mang hai giòng máu Thái-Việt, lên ngôi vua xưng là Hùng Vương và truyền lại 18 đời theo lối thế tập của phụ hệ. Có lẽ dưới sức ép phải minh chứng với người nghe kể chuyện là đám con theo Cha cũng tiến lên phụ hệ một lượt với các thầy Bắc phương, từ thời nhà Hạ bên Tàu.
10. Để tránh lộn xộn, xin tóm lược vài 'đẳng thức cơ bản' của loạt bài này, như sau:

* Bách Việt = Nhiều chủng tộc có các ngôn ngữ gần giống nhau, nhưng khác Hoa ngữ
* Việt (Nam) = Thái (cổ) + Việt (cổ) + Một số các chủng có sẵn bản địa (như Negrito,
Melanesian, Môn, Khmer, v.v.), từ đây gọi tắt 'các chủng khác', CCK.
* Việt (Nam) = Thái-cổ + Việt-cổ + CCK = Âu + Lạc + CCK
* Thái (cổ) = Nhiều chi chủng Thái (Âu) khác nhau (> 7)
* Việt (cổ) = Nhiều chi chủng Lạc (Việt cổ) khác nhau (> 5)
* Người Việt Nam thời sơ khai = Mẹ Thái + Cha Việt
* Người Thái Lan, xưa và nay = Mẹ Thái + Cha Thái
* Hmong (Miêu) tộc = hậu duệ của đám Cửu Lê (Jiu Li), với lãnh tụ Xy Yâu (Vưu) - từng đại bại trước phe Hoa chủng của Hiên Viên 'Hoàng Đế', trong thời huyền sử. Ngày trước, chủng Hmong thường được gộp chung với khối Bách Việt. Bây giờ họ được tách ra khỏi khối này bởi có nhiều khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, chỉ số sọ và có lẽ DNA.
Chúng ta có thể thấy rõ, một khi giải mã được truyền thuyết như một câu chuyện đời xưa liên hệ đến cuộc di tản hằng khối của 2 tộc Âu và Lạc, kết thúc bằng chia ly, tất cả những vấn đề liên hệ đều có thể nhanh chóng được sắp xếp trở lại, 'đâu vào đó' rất êm xuôi.

Phần sau đây chúng ta sẽ phân tích riêng về nước Xích Quỷ.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [5] có chép:
'Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: ''Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.''
Sau đó vẫn theo 'truyền thuyết' Lạc Long quân phong cho người con trai trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.

XÍCH QUỶ
'Quốc hiệu' nguyên thủy của nước Nam chính là Xích Quỷ. Theo 'truyền thuyết giải mã', địa bàn 'nước' Xích Quỷ chính là địa bàn của khối Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử. Không kể đến những chủng Việt khác đã sinh sống hàng trăm hàng ngàn năm trước ở miền Hoa Bắc. Để ý thêm, bởi các tác giả truyền thuyết thuộc chủng Âu (Thái-cổ), ta thấy toàn bộ truyền thuyết đã được viết riêng theo quan điểm chủng Âu, tức gốc tổ người Mường. Viết y theo gia phả bên vợ của Lạc Long Quân, đại diện chủng Lạc tức Việt-cổ.

Xin phép nhấn mạnh thêm một lần nữa: Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc. Tác giả mập mờ không cho biết địa bàn phương Bắc gồm những vùng đất nào, nhưng đến khi được biết 'ranh giới' Xích Quỷ chúng ta có thể đoán ngay 'phương Bắc' bao gồm nhiều lắm là địa bàn tỉnh Hồ Bắc ngày nay, tức phần lớn đất Kinh Việt, tức châu Kinh của nước Sở. Phương Nam của nước Xích Quỷ do đó chỉ là một sản phẩm tiểu thuyết, của một truyện cổ tích lâm ly. Bởi một khi đã xác định thời gian và không gian nhằm vào nước Sở ở thời Xuân Thu Chiến Quốc, chúng ta có thể thu thập các dữ kiện lịch sử rất chắc chắn như sau:

(i) Vào thời đó, ở miền Bắc sông Dương Tử, có đến trên 1000 nước lớn nhỏ khác nhau, bao gồm nhiều bộ tộc chủng tộc khác nhau. Với tiếng nói và phong tục khác nhau. Chỉ đến khi nước Tần trở nên hùng cường, diệt được Sở cùng với Hàn, Triệu, Ngụy, Tề và Yên và nhất thống được nước Tàu, lúc đó hãy còn loanh quanh ở Hoa Bắc, họ mới bắt đầu công cuộc Nam chinh, đánh vào các bộ tộc rợ miền Hoa Nam.

(ii) Miền Hoa Bắc trước khi nhà Tần nhất thống đã là một hỗn hợp rất nhiều bộ tộc và 'quốc gia'. Miền Hoa Nam của khối Bách Việt chắc chắn cũng y như vậy. Sử sách chính thức của Tàu không bao giờ đề cập đến 1 nước nhất thống được tất cả hằng trăm bộ tộc khác nhau của khối Bách Việt, ở Hoa Nam, trước và sau khi nhà Tần, nhà Hán khởi động chiến tranh xâm lược miền Hoa Nam. Bởi ở lý do hết sức đơn giản: Họ mãi lo chinh chiến ở miền Hoa Bắc nên hiểu biết rất ít về đám rợ ở Hoa Nam.
Như vậy tên gọi Xích Quỷ chỉ là một sản phẩm của chuyện cổ tích, với một mục đích đơn giản ghi lại cội nguồn của các chủng Bách Việt, đặc biệt hai chủng 'chủ lực' đã cuối cùng định cư tại đất Bắc Việt ngày nay: Âu và Lạc.

Sau đây chúng ta thử phân tích những lý do nào đã khiến tác giả chọn tên Xích Quỷ cho 'quốc hiệu' đầu tiên của nước Nam.
Tên nước 'Xích Quỷ' xuất hiện chính thức và đầu tiên với bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên [6], vào đời vua Lê Thánh Tôn, khoảng năm 1479. Trước đó, nước Nam có hai bộ sử, với đặc điểm không có chép về truyền thuyết dựng nước của Hùng Vương, con trai trưởng của Sùng Lãm tức Lạc Long Quân, và Âu Cơ. Thứ nhất, Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, soạn năm 1272, thất truyền từ lâu. Thứ hai, Đại Việt Sử Lươc [7], khuyết danh, ra đời vào khoảng 1377-1388, dưới thời nhà Trần.

Cả hai bộ Sử Ký và Sử Lược đều không có ghi chép gì hết về cái danh xưng 'Xích Quỷ'. Như đã tóm lược phía trên, toàn bộ truyền thuyết xuất phát từ một chuyện cổ tích của người Mường. Chuyện đó chỉ bắt đầu vào đoạn 'Có một nàng công chúa Mường tên Ngu Kơ (Âu Cơ) lấy thái tử con bua Yịt là Long Wang (Lạc Long Quân)', chứ không có các tổ tiên như Thần Nông, Đế Minh, Kinh Dương Vương, hoặc lãnh thổ như 'Xích Quỷ', ... Và kết thúc ở chỗ Ngu Kơ dẫn 50 đứa con trai và gái lên miền rừng núi, trong khi Long Wang đưa 50 người con trai và gái xuôi về miền đồng bằng gần sông biển. Hai bên tạo dựng nên các gia đình vua chúa. Ngụ ý những bộ tộc hai phe đều do các người con đứng vào vị thế lãnh đạo. Tức bản Mường không hề có Hùng Vương, hoặc hình thái nhà nước như nước Văn Lang.

Nói về tên nước Xích Quỷ, chúng ta có thể để ý đến các điểm chính như sau:

(i) Địa bàn của nước Xích Quỷ rất rộng lớn, nằm ở giữa khu vực Hoa Nam bên Tàu. Tức phiá Nam sông Dương Tử. Nhượng Tống, dịch giả đầu tiên của bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [6], theo trích dẫn của Bình Nguyên Lộc [1] cho rằng tên Xích Quỷ ... quá xấu nên không có gì đáng tin cậy. Bình Nguyên Lộc, mặc dù lăng xê thuyết Mã Lai bằng tiếng Việt nhưng vẫn tin có Xích Quỷ và Văn Lang, đã ra sức biện giải cho tên Xích Quỷ và cho rằng có thể nằm đâu đó phía Nam tỉnh Quí Châu ngày nay. Quí Châu nằm ở phía Bắc và giáp giới tỉnh Vân Nam. Phía Đông của Quí Châu là tỉnh Hồ Nam. Khi xưa tỉnh Quí Châu có tên Quỷ Phương, cũng chứa từ 'Quỷ' trong đó, nằm ở phía Nam nước Sở thuộc khu vực Hồ Động Đình, cạnh sông Dương Tử.

(ii) Đọc sử Trung quốc, chúng ta cũng thấy vào thời Xuân Thu (770-476 TCN) có một bộ tộc rất 'man di' mang tên 'Xích Địch' quấy nhiễu nhà Châu, sau nhờ Tấn Văn Công hội chư hầu đánh dẹp [4]. Dân Xích Địch cũng có 'choảng' với các nước chư hầu khác, trong đó có nước Sở, đang chạy theo văn minh Hoa Hạ [3]. Nên để ý, mặc dù người Tàu thời cổ đại bày đặt phân biệt các đám rợ gọi theo phương hướng: Tây Nhung, Bắc Địch, Đông Yi, và Nam Man, chúng ta thấy rất thường họ gọi lẫn lộn lung tung. Dân rợ phía Nam, thỉnh thoảng họ cũng gọi chung 'Man Di'. Lý do? Bởi ban đầu họ đã sắp xếp phân loại một đám rợ thuộc chủng này ở miền này, nhưng về sau họ lại gặp một đám rợ khác, ở hướng khác miền khác, có dáng dấp, phong tục và màu da y hệt như đám cũ trước kia. Thí dụ, người Hoa đầu tiên có thể gặp đám rợ Yueh ở khu vực Sơn Đông (nước Tề xưa), họ gọi đó là rợ Di, Lai Di. Đôi khi họ gọi đám Yueh đó Bách Bộc, tức nhiều bộ tộc mang tên Bộc giống giống với nhau. Cũng có lúc họ gọi một đám nào trong đó Yueh (Việt), như Việt Thường chẳng hạn [10]. Về sau họ gặp lại những nhóm rợ tương tự ở phía Nam sông Dương Tử, sống chung hay gần gũi các đám Nam Man khác, nên họ vẫn có thể gọi đám rợ phía Nam là 'Di'. Tức mặc dù đã đặt tên mới nhóm rợ Nam sông Dương Tử là Bách Việt hay Nam Man. Đôi khi họ vẫn lẫn lộn Di với Man cho cả hai đám. Bởi thật ra về chủng tộc rất có khả năng, hai khối thuộc chung một chủng lớn. Tương tự cho Xích Địch, mang nghĩa 'rợ có da màu đỏ'. Rất có khả năng, đầu tiên họ biết đám rợ này từ phương Bắc (nên mang tên Địch), nhưng hoàn toàn không có nghĩa dân Xích Địch không có ở phía Nam sông Dương Tử. Đây là một điểm khá gút mắt của đầu óc người Hoa.

(iii) Ta cũng để ý đầu óc mấy ông Tàu cũng rất phức tạp và tinh vi ở chỗ hết dùng phương hướng họ lại dùng đến màu sắc để phân biệt đám rợ này với nhóm rợ kia. Y hệt như cái thuyết Ngũ Hành. Theo ngũ hành họ có Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, tương ứng với Tậy Đông Bắc Nam Trung, và với các màu Trắng Xanh Đen Đỏ Vàng. Đủ kiểu dáng để tha hồ phân biệt. Đối với 'Xích Địch' họ gọi đó đám rợ da màu thổ chu (đất đỏ) để phân biệt với các đám U Man (Wu man), tức rợ da màu đen đen - có lẽ chỉ Thái đen, và đám Bạch Man hay Bạch Di, tức rợ da hơi trắng. Đám U man, có tài liệu [11] cho biết, cư ngụ tại địa bàn Nam Chiếu (Vân Nam) và Dạ Lang (Quí Châu), cũng thuộc địa bàn chủng Thái, chứ không phải chủng Lạc. Đặc biệt nước rợ Việt của Câu Tiễn cũng từng được gọi U Việt, có lẽ người 'Việt' ở đó hồi xưa có da ngâm ngâm đen, trừ nàng Tây Thi? Theo Lăng Thuần Thanh, thư tịch Trung Hoa cổ thời gọi hai khối Yi (Di) và Yueh (Việt), là đám rợ đen (U man) [12]. Rất lộn xộn, nhưng theo thiển ý, có vẻ cả hai khối Đông Yi ở miệt Sơn Đông và Bách Việt phía Nam sông Dương Tử đều có các nhóm da màu đen đen
(iv) Phân biệt 'U man', 'Xích địch' cũng là phân biệt với 'Bạch Man' hay 'Bạch Yi'. một đám quỷ, đám rợ, có da trăng trắng. Bạch Man có lẽ được người Hoa dùng để chỉ đám rợ Nguyệt Chi (còn gọi Nhục Chi) tức Turkistan hay Tokhares hoặc Tocharians, mà ngày nay họ ưa gọi Tujia (Thổ gia) - gốc da trắng. Ngày xưa có thể họ là chủ nhân nước Ba [15], nằm cạnh nước Thục. Đám Thổ gia (Tocharians) chính là đóng góp của chủng da trắng đối với chủng Tàu nguyên thủy [1]. Họ xuất phát từ Trung Á, và thiết lập nên nhiều tiểu quốc trên con đường Tơ Lụa (Silk Road). Sau cùng có một nhóm về định cư ở Trung Đông, trở thành nước Thổ Nhị Kỳ (Turkey) ngày nay. Đây chỉ một trong nhiều giả thuyết.

(v) 'Xích Quỷ' mang nghĩa loài quỷ có da màu đỏ, và ở cuối 'quyển Mã Lai' [1], tác giả có mô tả một loại người dân tộc (người Kha Lá Vàng ở biên giới Việt Lào) nói thứ tiếng Việt rất cổ có da màu đất đỏ, màu 'thổ chu'. Với hàm ý, rất có thể người Kha là hậu duệ của dân ‘Xích Quỷ’. Ở một đoạn khác tác giả 'Mã Lai' cho biết dân Khả Lá Vàng có rất nhiều đặc tính cổ thời của dân Việt, mà chúng tôi mạo muội bắt đầu phác hoạ sự phân biệt giữa chủng Thái-cổ và Việt-cổ. Dân Kha có đủ thứ sắc thái của chủng Yueh-cổ: xâm mình, nhuộm răng, ăn trầu, và điêu đề (xâm trán), cũng như nói tiếng Việt rất cổ [13]. Tuy nhiên, tiếng Việt cổ của dân Kha gần với tiếng Mường hơn tiếng Việt. Điều này cho biết, theo với thuyết giải mã ở đây, người Kha thuộc chủng Thái cổ chứ không phải Việt cổ. Thuộc đám theo Âu Cơ, với chủng Âu (Thái-cổ).

(vi) 'Xích Quỷ' là một tên gọi thuần Hán. Do các tác giả Việt có thể thân-Mường, hay thân-Thái-cổ tức nghiêng về 'phe' của vua Lê Lợi (gốc Mường), đặt ra nhằm đề cao vai trò lãnh đạo của chủng Thái-cổ trong cuộc di tản về Nam hay dựng nước. Hoặc vinh danh chính triều đại nhà Lê vào lúc các bộ truyện như 'Việt Điện U Linh' hay 'Lĩnh Nam Chích Quái' ra đời. Nó đi đôi với tên xưng và địa danh của toàn bộ truyền tích con rồng cháu tiên. Đặc biệt những chuyện tích thơm danh chủng Việt như những cây gươm báu của Việt Vương Câu Tiễn, hai thanh kiếm Mạc Da và Can Tương ở nước Ngô (chủng Việt) [4], hoặc truyện tích Tây Thi gái nước Việt, đã 'bị' hoàn toàn gạt ra khỏi các truyền tích nằm trong cổ sử Việt. Chúng tôi hy vọng sẽ trở lại đề tài này trong một bài khác.

(vii) Trở lại với chuyện chủng Thái-cổ có thể có một số mang da màu thổ chu (đất đỏ), nhiều tài liệu về việc khai quật các ngôi mộ cổ ở Bắc Bộ (thí dụ: xem [8]) cho thấy người chết được chôn cất, co gấp hai tay hai chân trong thế bó gối, giống như dân ở hải đảo Thái Bình Dương [14]. Ngoài ra ở chung quanh 'ngôi mộ còn thấy dấu vết của thổ hoàng màu đỏ như màu máu và càng về sau, người ta thấy cùng chôn với người chết còn có những dụng cụ như rìu, nạo và sau có cả đồ gốm thì người ta hiểu rằng có thể những người tối cổ đã tin tưởng là con người còn có linh hồn và khi chết thì linh hồn sẽ đi sang một thế giới khác để có một đời sống khác,.. [8]'.

(viii) Đọc lại sử sách hoặc địa lý Trung quốc (thí dụ [4]) chúng ta sẽ thấy vùng đất ở khu vực Trùng Khánh Tứ Xuyên, tức nước Thục cổ xưa với chủng Thái chủ lực, gồm toàn đất ... đỏ. Như vậy, khá rõ, chủng Hoa ngày xưa dùng chữ 'Xích địch' để chỉ đám rợ có da màu thổ chu của đất đỏ.

Xin thử ghi lại các sự kiện liên quan đến 'Xích Quỷ' ở trên:
- Tác giả chính hay nguyên thủy của truyền thuyết là người Việt chủng Thái-cổ;
- Xích Quỷ là quốc hiệu đầu tiên của truyền thuyết rồng tiên;
- Xích Quỷ mang nghĩa chính: giống Rợ có da màu đỏ. Một thứ từ do Hoa chủng đặt ra;
- Khối dân tộc chủ lực của Xích Quỷ chính là dân chủng Âu, tức Thái cổ;
- Người Kha Lá Vàng ở biên giới Việt-Lào có da màu thổ chu;
- Một số ngôi mộ của người Việt-cổ đã khai quật cho thấy dấu vết của đất đỏ;
- Nước Thục, chủng Thái, ở vùng Tứ Xuyên ngày nay, có rất nhiều đất đỏ;
- Thục bị Tần tiêu diệt vào khoảng năm 316 TCN;
- Dân Thục chủng Thái di tản sang Sở, và một số xuôi về Nam gia nhập cộng đồng ở

Tây Âu (tức Âu Việt), Điền Việt (Nam Chiếu) và sau cùng, bình nguyên sông Hồng.
Như vậy chúng ta có thể tổng hợp lại như sau: Xích Quỷ chính là một 'nước' trong trí tưởng tượng rất phong phú của các tác giả truyền thuyết - người Việt thuộc chủng Thái-cổ hay thân-Thái-cổ. Những người 'lãnh đạo' nước Xích Quỷ đó bao gồm những người di tản Việt chủng Thái, xuất phát từ một xứ có nhiều đất đỏ mang tên Thục. Nước Thục đã bị nước Tần tiêu diệt vào khoảng năm 316 TCN.

'Nước Xích Quỷ' do đó được đặt ra và nhét vào truyền thuyết con rồng cháu tiên, để tự an ủi việc mất lãnh thổ vào tay Hoa chủng - có lẽ khởi đầu bằng nước Thục (316 TCN). Sau đó đến lượt nước Sở rồi Tây Âu. Cũng có thể để ghi lại lý lịch ban đầu cho thật rõ: dân Việt có nguồn gốc dân từ những nước đã bị mất về tay Hoa chủng. Đặc biệt Thục và Sở.
Câu chuyện di tản do ở chuyện mất nước kết thúc khi một người nước Thục mang tên Phán (Thục Phán) lãnh đạo được đoàn người di tản - đa số xuất phát từ những nước đã mất về tay Hoa chủng - đến vùng bình nguyên sông Hồng và thiết lập nên xứ Âu Lạc, bao gồm hai chủng nòng cốt Âu và Lạc. Đó cũng là lúc Âu Cơ thành hôn với Lạc Long Quân.

KẾT

Qua loạt bài về giải mã truyền thuyết con rồng cháu tiên, đến đây chúng ta đã thấy, mặc dù câu chuyện bắt đầu với Thần Nông, Đế Minh, và Đế Nghi - nhưng đến lúc Lộc Tục xuất hiện với danh xưng Kinh Dương Vương, câu chuyện đã bị 'fast forward' theo kiểu bấm nút cho băng video quay nhanh sang đến thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu với địa điểm xảy ra câu chuyện là nước Sở.

Nước Sở là một nước được thành lập theo kiểu chư hầu phên dậu cho nhà Châu. Thành phần dân chúng chủ lực của Sở chính là chủng Thái-cổ, thường gọi Âu vào thời đó. Từ đó câu chuyện giới thiệu bà Âu Cơ, tiêu biểu cho chủng Âu, con gái theo họ mẹ y như mô hình mẫu hệ. Nhân vật Kinh Dương Vương cũng là một cái đinh của câu chuyện, bởi Kinh Dương Vương biểu tượng cho những người dân ở châu Kinh và châu Dương. Cả hai đất Kinh và Dương cũng đều thuộc nước Sở ở vào thời cực thịnh trong thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Đất Kinh còn gọi Kinh Cức hay Kinh Việt, hoặc Kinh Man. Kinh chỉ núi Kinh, và Cức là một loại cây có gai ở vùng đó. Đất Kinh là địa bàn ban đầu của Sở chứa đa số dân Việt thuộc chủng Thái. Đất Dương nằm về phía Đông Nam của đất Kinh, ra tận tới biển, bao gồm những vùng đất quân Sở đã thôn tính được từ đám dân Việt chủng Lạc ở hai nước Ngô và Việt xa xưa.

Bởi trong tên Kinh Dương Vương có chữ 'Dương', chỉ chủng Lạc tức Việt-cổ, con của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân mới mang được huyết thống của chủng Việt-cổ 100%. Phối hợp với Âu Cơ, chủng Âu tức Thái-cổ 100%. Hôn nhân giữa Âu và Lạc sinh ra 100 người con mang hai giòng máu Thái và Việt. Cuộc hôn nhân dị chủng đầu tiên nổi tiếng nhất của Á Châu đã nhằm vào mục đích nhất thống hai chủng tộc lớn và kiên cường nhất của khối Bách Việt để chống lại chủng Hoa rất hung hăn và dữ tợn. Cuối cùng đành phải thua, và hai chủng dắt tay nhau thối chạy về phương Nam. Họ dựng 'nước' nhưng rồi ý kiến bất đồng nàng Âu và chàng Lạc đành phải chia tay, đôi ngả đôi ta. Mỗi người dẫn nửa đám con về trở lại địa bàn nguyên thủy của chủng họ.

Việc chia tay giữa Lạc Long Quân với Âu Cơ xảy ra cùng lúc với việc nhà Hán thừa hưởng di sản 'tinh thần nhất thống và đế quốc' của nhà Tần, đưa quân xuống tiến chiếm hết miền Hoa Nam, đặc biệt khối chủng Việt (Lạc) ở vùng đồng bằng ven biển hướng Đông. Trong đó có phần đất Dương của nước Sở xa xưa, nước Mân Việt (Phúc Kiến ngày nay), và Nam Việt của Triệu Đà. Thế lực đô hộ sau đó tách rời phần đất chủng Âu (tức Thái-cổ) ra khỏi vùng đất chủng Lạc (tức Việt-cổ). Rồi ở tại nước Âu Lạc (cũ), đổi tên thành Giao Châu, nhiều người địa phương không thích chung sống với các quan trên người Tàu, đã di tản một lần nữa về miền rừng núi (cùng với Âu Cơ). Nhiều thế kỷ sau, qua quá trình hợp chủng với các sắc dân địa phương như Negrito, Melanesian, Môn-Khmer, v.v. họ trở thành người Mường.

Truyền thuyết còn mang rất nhiều điểm gút mắt và bí ẩn chúng tôi hy vọng sẽ lần lượt giải mã trong những bài tới. Nhưng ở đây chúng tôi xin mạo muội đưa ra vài đề nghị về đổi chác lịch sử, hiện thức được từ việc giải mã truyền thuyết.
Trước hết xin tóm tắt lại một vài điểm cao về nước Sở, cái nôi của dân tộc Việt.

(i) Sở mặc dù mang tiếng rợ thuở ban đầu, đã nhanh chóng thu nhập và rượt theo văn minh Hoa Hạ rất nhanh. Sở suýt một chút có thể thay thế vai trò nước Tần, nhất thống nước Tàu và thay đổi toàn bộ lịch sử. Chủng Việt (Yueh) thay chủng Hoa làm xếp nước Tàu và Hoa chủng có thể di cư xuống Đông Nam Á.

(ii) Xin để ý đến 3 câu ngạn ngữ sau, cho thấy người Sở rất 'nổi' (dân xịn) ở thời Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu:

- Tần phì Việt sấu: người Tần ưa ăn thịt mỡ nên mập béo. Người Việt (Thái+Việt) ở Sở thích ăn rau cá nên người thon thả hơn.
- Gỏi Sở nem Tần: giống như trên, dân Tần ưa ăn thịt hơn dân Sở. Theo [1] Tản Đà rất thích câu ngạn ngữ này.
- Đầu Ngô mình Sở: câu này cho biết lý trí thiên về chủng Việt (nước Ngô), và tình cảm (trái tim, thân mình) nằm ở chủng Thái (dân chủ lực của nước Sở). Cũng có thể mang nghĩa một người lai giống (Việt + Thái), không giống ai.
(iii) Sở có những sinh hoạt văn hoá rất đậm nét. Văn minh của Sở đã đóng góp rất nhiều vào văn minh Trung quốc, và cũng là một tiền thân của văn minh Việt Nam và Thái Lan. Tông giáo 'đồng bóng' (shamanism) đã có với chủng Yueh (chi Thái và Việt) ngay từ lúc họ còn sinh sống tại đất Kinh và Dương thuộc nước Sở..
(iv) Nổi bật nhất trong lĩnh vực văn minh và văn hoá chính là trống đồng (đã có tại Sở), và thể thi ca Sở Từ, một lối thơ gieo vần của dân Sở. Theo [4], so với Kinh Thi của Hoa chủng ở phía Bắc:
- Sở Từ dài trường thiên, trong khi Kinh Thi chỉ gồm những bài ca ngắn;
- Sở Từ dùng nhiều thần thoại, Kinh Thi nghiêng về nhân sự;
- Sở Từ lãng mạn, Kinh Thi tả chân;
- Sở Từ tác phẩm văn nhân, Kinh Thi thuộc giới bình dân.

Tác giả nổi tiếng nhất về Sở Từ chính là Khuất Nguyên (343-277 TCN) - đã sáng tác bản Cửu Ca trên bước đường lưu vong về phía Nam (xem bài số 2). Khuất Nguyên cũng rất nổi tiếng với thiên Ly Tao, bày tỏ tâm sự nỗi lòng của ông.
(v) Hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam, ngày xưa từng là địa bàn nước Sở, ngày nay được xem như trung tâm văn hoá số một của Trung quốc [1].

Đề nghị thô thiển đổi chác lịch sử xin trình bày như sau:

(a) Tạm quên 4000 năm văn hiến.
(b) Chú ý nhiều hơn với 3000 năm văn hiến: Từ năm 1000 TCN đến ngày nay (2005).
(c) Để đổi: Nguồn gốc dân Việt Nam khởi từ nước Sở, thành lập khoảng 1000TCN
(d) Từ đó, tự nhiên dân Việt Nam sẽ là thừa kế và hậu duệ của chủ nhân tất cả trống đồng và quan trọng nhất: Sở Từ, một thể thi ca bất hủ ngang ngửa với Kinh Thi của Hoa chủng. Khuất Nguyên cũng có thể là một kiếp trước nào đó của Nguyễn Du.
(e) Nhìn xa xa, rất có thể Hán Cao Tổ Lưu Bang mang ít nhiều giòng máu Việt, bởi ông này dùng đất Hán sông Hán, nằm trong địa bàn nước Sở để đặt tên triều đại đầu tiên huy hoàng của Hoa chủng. Ấn tượng của triều nhà Hán mạnh mẽ đến độ người Hoa từ dạo đó về sau ưa gọi mình Hán tộc.
Ghi Chú
[1] Bình Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu (USA) tái bản.
[2] Bửu Cầm (1971) Tương quan giữa những hình chạm trên trống đồng Việt tộc và bài 'Đồng Quân' trong Sở Từ. Tập san SỬ ĐỊA, năm thứ VIII, số 25, tháng 1-3, 1971.
[3] Đường Nhạn Sinh, Bạo Thúc Diễm & Chu Chính Thư (2002) Mưu Trí thời Xuân Thu. (Ông Văn Tùng & Vũ Ngọc Quỳnh dịch). Nxb Văn Nghệ, TP HCM
[4] Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung quốc. Nxb Văn Hoá.
[5] Trần Trọng Kim ( 1971) Việt Nam Sử Lược. Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục xuất bản. Đại Nam tái xuất bản tại Hoa Kỳ.
[6] Ngô Sĩ Liên và cộng sự (1497). Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Thanh Việt và Phạm Ngọc Luật hiệu đính theo bản dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá Thông Tin (2004). Bản của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam được trình bày đầy đủ trên mạng internet: perso.wanadoo.fr/charite
[7] Khuyết Danh (1377-1388) Đại Việt Sử Lược. Bản dịch của Nguyễn Gia Tường. Nhà Xuất Bản Thành Phố HCM. Bộ Môn Châu Á Học Đại Học Tổng Hợp TP.HCM.
[8] Cung Đình Thanh (2003) Tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học. Nhà xuất bản Tư Tưởng. Sydney - Australia
[9] https://www.chinaknowledge.de/History/Altera/south.html#ba
[10] 'Việt Thường' có thể là một tên sớm nhất người Hoa đặt cho một nhóm thuộc Bách Bộc, hay Bách Việt sau này. Xin xem bài 'Văn Lang'.
[11] https://www.chinaknowledge.de/History/Altera/south.html#ba
[12] https://www.geocities.com/Tokyo/Bay/7051/DRAVIDIANS.html
[13] Bình Nguyên Lộc cũng như tất cả các tiền bối đều tiện nghi hợp hai chủng Âu và Lạc lại thành một nhóm trong những phân tích khó khăn. Những đặc tính chủ lực của chủng Yueh thời sơ khai bao gồm: nhuộm răng, ăn trầu, văn thân (xâm mình), điêu đề (xâm trán), lên đồng (shamanism), ... đều có thể tạm thời quy hết về chủng Âu, tức Thái-cổ. Chủng Lạc (Việt), như đám Bộc Việt ở miệt Sơn Đông, cũng có những đặc tính giống như vậy. Tuy nhiên, có lẽ việc lên đồng (shamanism) chỉ đặc trưng thuộc chủng Thái-cổ mà thôi.
[14] Việc tìm thấy xương và sọ của chủng Polynesian (dân đa đảo) và Melanesian (dân da đen hải đảo) không những tại các ngôi mộ ở Bắc Bộ mà còn lan rộng tận miền Hoa Bắc. Tài liệu internet ghi trong [11] cho biết những người cổ ở Ngưỡng Thiều đã biết trồng kê, lúa, nuôi ngựa, dê và cừu. Họ sản xuất đồ gốm (đen và đỏ) truy về khoảng niên đại 3000-1800 TCN. Tuy nhiên xương họ để lại, giống xương người Polynesian hoặc Melanesian nhiều hơn là giống chủng Mongoloid (gần chủng Hoa). Rất có thể người Hoa thời cổ đại cũng dùng 'U Man' để chỉ người Melanesian này.
[15] Người nước Tần thuở ban đầu cũng giống như Sở, làm nước phên dậu cho nhà Châu. Cũng một giống rợ nhưng lai bọn Tây Nhung rất nhiều. Tây Nhung có thể bao gồm đám Thổ gia, tức Turkistan.
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top