• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước qua các tác phầm “Hịch tướng sĩ”, “Nước Đại Việt ta” và “

missyouloveyou

New member
Xu
44
Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, trên nền trời văn chương yêu nước Việt Nam nổi bật những áng văn chính luận xuất sắc, phản ánh rõ nét tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập và công cuộc xây dựng phát triển tổ quốc. Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời kì lịch sử, ở giai đoạn xây dựng và bảo vệ ấy, sự khám phá và thể hiện tinh thần yêu nước là nguồn cảm xúc chính của mỗi tác giả tác phẩm, thể hiện ở “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Nước Đại Việt ta”.

“Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn là một tác phẩm sáng ngời tư tưởng yêu nước của dân tộc Đại Việt ở buổi đầu tự cường tự chủ. Tinh thần yêu nước được tác giả khám phá từ khát vọng của nhân dân về một đất nước độc lập, thống nhất, an cư lạc nghiệp. Dưới thời bình ở buổi đầu dựng nước, việc thay đổi kinh đô đối với triều đại nhà Lí là một tất yêu khách quan và theo quy luật “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”. Cả hai yếu tố chỉ nhằm hướng vào một mục đích “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” lâu dài. Bởi muốn xây dựng đất nước hùng cường, vững bền, triều đại thịnh trị, tinh thần yêu nước của Lí Công Uẩn đã được khám phá và thực hiện từ góc độ mong muốn thái bình thịnh trị, đất nước phải đi lên theo một tầm vóc mới mẻ, lớn lao.

Người xưa thường “tuân theo mệnh trời”, những cái gì thuận theo trời định ắt sẽ thành công, điều đó được coi như cái tất yếu mà tạo hóa đã định. Kế tục truyền thoongd và phát huy truyền thống cổ xưa là một phương hướng nên làm của việc dời đô. Tác giả đã đưa ra những dẫn chứng lịch sử của từng thời đại để thuyết phục lòng dân trăm họ: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Đó là sử sách Trung Quốc đúng ca ngợi noi theo, chứ đâu như “các vua thời Tam Đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời”, “khinh thường mệnh trời”, cứ đóng đô mãi ở Hoa Lư nên dẫn đến “số vận ngắn ngủi”, “trăm họ hao tổn”, “muôn vật không được thích nghi”…

Đau xót khi nghĩ về “số phận ngắn ngủi” của các triều đại Đinh, Lê trước, Lí Công Uẩn cảm thấy việc dời đô là một việc hết sức cấp thiết “không thể không chuyển dời”.

Đại La là kinh đô cũ của Cao Vương với vẻ đẹp và thuận lợi muôn mặt bởi lẽ là “trung tâm trời đất”, “đúng ngôi nam bắc đông tây”, “thế rồng cuộn hổ ngồi”, “tiện hướng nhìn sông dựa núi”, “muôn vật rất mực phong phú tốt tươi”… Đại La xứng đáng là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Đó là tầm nhìn chiến lược của Lí Công Uẩn về Đại La, một cái nhìn toàn diện, sắc sảo và sáng suốt, mong muốn về một đất nước ngày mai tươi đẹp, thái bình giàu mạnh, phát triển vững bền.

Mặc dù vậy, để thống nhất trên dưới chung lòng cùng một ý kiến, Lí Công Uẩn đã bàn bạc với triều thần chỉ với một câu hỏi tu từ bỏ ngõ ở phần kết: “Các khanh thấy thế nào?”. Lời lẽ ấy xuất phát từ tình cảm máu mủ ruột thịt dân tộc Đại Việt, từ tinh thần yêu nước sâu nặng lớn lao, khao khát thoát ra ngoài vỏ bọc yếu kém so với các cường quốc khác.

“Chiếu dời đô” của Lí Công Uần không chỉ là một văn kiện lịch sử mà còn là áng văn nghị luận đặc sắc. Kết hợp giữa văn xuôi và văn biền ngẫu đã tạo nên một bài chiếu với trình tự lập luận chặt chẽ, ngôn từ và câu văn nghị luận ngắn gọn, súc tích; dẫn chứng cụ thể; đồng thời cho thấy sự thể hiện chân thành tình cảm của người viết, mong muốn sự nghiệp dời đô hoàn thành và hưng thịnh.

Sự nghiệp dời đô và bài chiếu ấy đã đi vào lịch sử văn chương như một sự kế tục và khơi nguồn cho con sông chứa đnựg phù sa yêu nước thêm dày thêm đỏ nặng. Dù thời bình hay thời chiến, tinh thần yêu nước ấy luôn cuộn lên những lớp sóng mạnh mẽ cuốn phăng đi những trở ngại trên con đường dựng nước và giữ nước của dân tộc, đưa toàn thể lớp người của dân tộc kết thành một cơn bão tinh thần giữa biển khơi vô tận, ghi nên những trang sử rực rỡ hào khí Đông A – một trong những trang sử dành riêng cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng áng văn chương hào hùng bất hủ “Hịch tướng sĩ”.

Với “Hịch tướng sĩ”, qua thời kì dựng nước của Li Thái Tổ, tới thời đại giữ nước này, mặc dù trong loạn lạc chiến tranh nhưng tinh thần yêu nước vẫn luôn được nung nấu với quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Ở khía cạnh này, nhận thức và sự khám phá về sự yêu nước không còn là phát triển và giàu mạnh nữa, nhận thức về tinh thần yêu nước bấy giờ là mong muốn đánh đuổi giặc ngoại xâm đang lăm le bờ cõi, là mong muốn nền hòa bình độc lập tự do.

Để thức tỉnh lòng yêu nước các tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nêu gương các trung thần nghĩa sĩ đã xả thân cứu nước cứu chúa phương Bắc để kích thích tinh thần trung dũng của các tì tướng nước nhà. Bằng cái nhìn sáng suốt và cảnh giác, Trần Quốc Tuấn đã vạch trần bộ mặt tham lam, dã tâm tàn bạo của quân xâm lược qua tên sứ giặc “đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”. Cậy thế nước lớn quân đông, chúng ra sức hoành hành, vừa “bắt nạt” vừa “sỉ mắng” triều đình vua quan nhà Trần. Xúc phạm đến quốc thể và tự tôn dân tộc Việt Nam là tự đào hố chôn mình bởi những hành động đó là nguyên nhân để đốt cháy lòng căm thì và khinh bỉ đối với sứ giặc Mông –Nguyên, khơi gợi ý thức dân tộc đối với tướng sĩ Đại Việt.

Bởi “ ta cùng các ngươi” “sinh phải thời loạn lạc” – “lớn gặp buổi gian nan” đã gắn kết chủ soái và tướng sĩ trong một sứ mệnh thiêng liêng cao cả: chống giặc Mông –Nguyên. Bộc lộ tất thảy nỗi lòng căm thù giặc sâu sắc cùng nỗi nhục mất nước, tác giả đã khẳng định “không thế khoan nhượng”. Với lũ giặc Nguyên – Mông thì quyết không thể dung tha! Vì “chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máy quân thù” nên “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa”. Trong cuộc chiến này, tướng sĩ chỉ có một quyết tâm, một hành động, một ý chí: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Tinh thần vì tổ quốc muôn ngàn kính yêu được Trần Quốc Tuấn nhắc nhở và nhấn mạnh ở chỗ quyết tâm và hành động “ huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”… Ở bất kì khía cạnh nào, biểu hiện nào, tác giả cũng biểu lộ một chí khí anh hùng, lẫm liệt và quyết chiến quyết thắng! Vì sự sống còn và niềm vinh quang của dân tộc mà quyết tâm đánh thắng giặc Mông – Nguyên để tông miếu muôn đời được tế lễ, để tiếng thơm lưu truyền hàng ngàn năm.

Bên cạnh đó, Trần Quốc Tuấn còn đưa ra những thú vui khoái lạc của các tướng sĩ cần phê phán. Vừa chân tình mà nghiêm khăc, răn dạy binh sĩ phải nghe theo. Bởi khi giặc ồ ạt kéo vào kinh đô, thì “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ bạc không thể làm mưu lược nhà binh, chén rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm giặc điếc tai”… để đến nỗi “ta cùng các ngươi khi ấy sẽ bị bắt, đau xót biết nhường nào”. Khi ấy, nước mất nhà tan, trăm dân trăm họ sống trong cảnh lầm than cơ cực; không những thế “thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu…”.

Dù trong loạn lạc, trước tình thế sắp mất, nhà sắp tan, tinh thần yêu nước vẫn không hề nguôi ngoai trước sức mạnh của quân địch, không hề làm tinh thần suy sụp, chán nản trước trận đánh sắp sửa xảy ra. Bằng niềm tin và lòng kiên định của bậc trung quân ái quốc, Trần Quốc Tuấn đã đứng lên, dập tắt nhưng suy nghĩ thất bại tỏng lòng các tướng lĩnh, vực họ dậy bằng lời lẽ đanh thép, mạnh mẽ, đầy sự răn đe nhưng cũng chan chưa một nỗi niềm cảm xúc. Tất cả đã tạo nên một bài hịch đầy sức truyền cảm mãnh liệt, tác động đến tinh thần tướng sĩ, gắn kết tướng sĩ và chủ soái trong nhiệm vụ vì dân vì nước, vì nền độc lập tự do.

“Hịch tướng sĩ” là bài ca yêu nước và niềm tự hào dân tộc, Nó là áng văn chính luận hùng hồn, sục sôi nhiệt huyết và tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng của muôn vạn hùng binh. (Bạn đọc có thể viết thêm phần nghệ thuật bài Hịch để phân tích được cách thể hiện).

Mặc dù vậy ở “Hịch tướng sĩ” vẫn có những mặt hạn chế. Tinh thần yêu nước và kháng chiến của các tướng sĩ là quan trọng, nhưng:

“Dễ trăm lần không dân cũng chịu,
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”


Dân mới là điều quan trọng hơn cả để xây dựng một khối lực lượng đoàn kết vững chắc. Tuy nhiên, trải qua nhiều năm cùng muôn vàn triều đại thịnh trị, đất nước phát triển, tầm vóc tư tưởng cao hơn; đất nước, vua quan đã biết lấy dân làm gốc. Ở một vi trí hưởng thái bình tự do sau khi dánh thắng giặc Minh hung tàn ngang ngược, bài cáo “Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi đã cho thấy tầm vóc quan trọng của nhân dân, đồng thời khám phá chủ nghĩa, tinh thần yêu nước ở một thời đại hoàn toàn khác.

Đầu xuân năm 1428, hưởng nền thái bình cực thịnh trị, Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi tổng kết 10 năm kháng chiến luôn song hành với tinh thần yêu nước và tuyên bố nước Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của “muôn thuở thái bình vững chắc”.

Tự hào đất Việt vón có nền văn hiến đã lâu, có lãnh thổ núi sông bờ cõi, có thuần phong mĩ tục, có nền độc lập tự chủ riêng và trong mọi thời đại luôn có nhân tài hào kiệt, Nguyễn Trãi viết bài cáo với niềm vui sướng hân hoan, tự hào vì “Việt Nam là một dân tộc anh hùng”.Trước tiên, nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”


Nhân nghĩa mà tác giả đang nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu dân cứu nước, vì độc lập dân tộc và vì tự do, hòa bình, hạnh phúc của nhân dân. Qua đó ta mới biết nhân nghĩa là cái gốc của đạo lí, là nguồn gốc sức mạnh Việt Nam. Khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền dân tộc Đại Việt, Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xây dựng độc lập, chủ quyền dân tộc:

“Như nước Đại Việt ra từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”


Quan niệm của Nguyễn Trãi luôn từng bước phát triển cao hơn, toàn diện và sâu sắc hơn trong học thuyết quốc gia, dân tộc trung đại. Trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”, ý thức về quốc gia dân tộc được xác định trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền nhưng chỉ mới là chủ quyền của triều đình vua quan. Đến với “Nước Đại Việt ta”, Nguyễn Trãi đã có thêm những yếu tố khác như văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Nguyễn Trãi đã thể hiện một ý thức dân tộc, niềm tự hào dân tộc sâu sắc khi nói về chủ quyền độc lập dân tộc: “Như nước Đại Việt ta từ trước…” Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách rõ ràng: các triều đại của Đại Việt luôn sánh ngang hàng với các triều đại phương Bắc, mỗi bên xưng đế một phương”.

“Nước Đại Việt ta” như là một bản tuyên ngôn độc lập. Để làm sáng tỏ nguyên lí nhân nghĩa, Nguyễn Trãi cũng đã đưa ra các dẫn chứng:

“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”


Kẻ xâm lược là kẻ đi ngược lại nhân nghĩa. Nói về thất bại của kẻ thù là ca ngợi thắng lợi hào hùng của dân tộc ta. Lời văn Nguyễn Trãi âm vang niềm tự hào dân tộc, sáng ngời chính nghĩa bằng lối nghệ thuật chính luận cao cường, giàu sức thuyết phục, cách viết sóng đôi, đề cao mọi thứ của nước Nam như là của tạo vật hiển nhiên, đời nào cũng có, có từ trước và lúc nào cũng khác.

Cả ba tác phẩm “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Nước Đại Việt ta” đều là những áng văn chương hào hùng của dân tộc. Mỗi tác phẩm đều được viết ở mỗi thời kì, mỗi triều đại khác nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chung một lòng, một tinh thần yêu nước. Trải qua nhiều năm văn hiến lịch sử, cách khám phá và thể hiện lòng yêu nước ở từng thời kì khác nhau song đều chung một lòng mong muốn xây dựng đất nước vững mạnh, độc lập tự chủ ỏ cả giai đoạn dựng nước và giữ nước của dân tộc. Xây dựng đất nước ở những buổi đầu còn dựa vào “ý trời”, dựa vào người cầm gươm giáo đánh giặc nhưng ở thời kì thịnh trị, tự hào dân tộc, cái nhân nghĩa là giá trị lâu dài của lòng yêu nước. Đó chính là cách khám phá và thể hiện của mỗi tác giả, thông qua tác phẩm về tinh thần “nồng nàn yêu nước” của Đại Việt ta.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

missyouloveyou

New member
Xu
44
Bạn đọc bài này có thể làm bài theo cách: Nêu sự thể hiện của từng tác phẩm, sau đó nêu cách thể hiện (đi kèm sau) là giá trị nghệ thuật để nhấn mạnh đề yêu cầu.
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top