• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Khái Hưng và vị trí của Khái Hưng trong tổ chức văn học Tự lực văn đoàn

Phong Cầm

Yêu!
Thành viên BQT
Khái Hưng và vị trí của Khái Hưng trong tổ chức văn học Tự lực văn đoàn

1 Tổ chức văn học Tự lực văn đoàn

1.1 Khái quát về tổ chức văn học Tự lực văn đoàn

Tự lực văn đoàn chính thức thành lập vào tháng 3/ 1933, tính từ tuyên bố trên báo Phong hóa số 87. Đây là một tổ chức văn học có tôn chỉ riêng và có đội ngũ gồm nhiều nhà văn tài năng đã góp phần xây dựng văn học nước nhà. Thực chất, hoạt động báo chí của họ đã tiến hành sớm hơn từ khi báo Phong hóa ra đời năm 1932 (do Trần Khánh Giư làm chủ bút, Phạm Hữu Ninh làm quản lí). Tự lực văn đoàn gồm tám thành viên: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thế Lữ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Trần Tiêu và Xuân Diệu, còn được gọi là “bát tú” (Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn). Đội ngũ của Tự lực văn đoàn khá đều tay và sung sức. Mỗi thành viên lại có một phong cách sáng tác, một hương vị riêng đều rất xuất sắc, nhưng chủ lực vẫn là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo, trung tâm hoạt động của văn đoàn.

Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn gồm 10 điều:
Điều 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.
Điều 2: Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và cho xã hội ngày một hay hơn lên.
Điều 3: Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân và cổ động cho những người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
Điều 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu , ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.
Điều 5: Lúc nào cũng mới mẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
Điều 6: Ca tụng những nét hay vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân khiến cho người khác đem long yêu nước một cách bình dân . Không có tình cách trưởng giả quý phái.
Điều 7: Trọng tự do cá nhân.
Điều 8: Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa.
Điều 9. Đem phương pháp khoa học Thái Tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
Điều 10: Theo một trong chín điểm này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.

Mặc dù tiêu chỉ của Tự lực văn đoàn đưa ra chưa thật kín kẽ, vẫn còn có những chỗ chưa thực hợp lí như điều 2, 3, 6 trùng lặp và điều 10 không quan trọng nhưng có những điểm rất tiến bộ, đáng quan tâm như chú trọng ý thức làm giàu cho văn chương nước nhà (điều 1), ca tụng những nét hay và vẻ đẹp của nước (điều 6), dùng lối văn có tính cách An Nam (điều 4)và đặc biệt là tôn trọng tự do cá nhân (điều 7). Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn nhìn chung là tiến bộ khi nói đến tình cảm dân tộc trong văn chương, ý thức về tự do các nhân và sự quan tâm đến vấn đề bình dân. Tuy nhiên các điều trong tôn chỉ còn bộc lộ tính nửa vời, không sát thực tế. Ví như, tôn chỉ nói đến dân tộc nhưng chỉ chú ý nhiều đến văn sản nước nhà, đến tình cách An Nam trong văn chương mà chưa khai thác sâu vào thực trạng của đất nước dưới chế độ thực dân phong kiến, tình hình đấu tranh của quần chúng…. Tôn chỉ đề cao tự do cá nhân nhưng chưa đề cập đến tự do trong bối cảnh chung của đất nước, cộng đồng.

Tự lực văn đoàn ra đời trong bối cảnh đất nước những năm 30 thế kỉ XX với nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh như phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, khởi nghĩa Yên Thế. Các phong trào đấu tranh thất bại, cuộc đấu tranh của dân tộc rơi vào tình thế khó khăn cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tâm lí chung của xã hội. Thời điểm đó cũng có nhiều văn đoàn, nhóm phái văn chương như Xuân Thu nhã tập, nhóm Tao Đàn, nhóm thơ Bình Định, trường thơ Bạch Nga, nhóm thơ Dạ Đài…Tuy nhiên, vị trí của Tự lực văn đoàn trong lòng độc giả vẫn chiếm tầm ảnh hưởng không nhỏ. Có được thành tựu ấy không phải là điều ngẫu nhiên mà có căn nguyên sâu xa từ hoàn cảnh xã hội, nhu cầu đổi mới sinh hoạt văn nghệ của xã hội và sự hiện diện của tầng lớp công chúng mới ở thành thị. Tự lực văn đoàn ra đời từ nhiều yếu tố rất phức tạp của hoàn cảnh và tâm thế xã hội: chính sách đô hộ của thực dân Pháp; tiến trình cải cách, cách tân xã hội; cuộc sống và tâm lý của công chúng đô thị; giao lưu văn hoá; sự thức tỉnh của ý thức cá nhân; ý hướng, khát vọng, tài năng, nỗ lực của cả một thế hệ nhà văn mới. Nhà cầm quyền Pháp đã đưa Bảo Đại hồi loan và tiến hành một số cải cách trong chính sách cai trị. Có thể nói, đây là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa thực dân mới ở Việt Nam, là hình thức dùng người Việt trị người Việt. Bọn chúng đã tuyên truyền rùm beng gây hẳn một phong trào cởi mở giả tạo, muốn làm cho người ta tin vào vai trò khai hoá của Pháp để đưa Việt Nam đến một tương lai tốt đẹp. Dưới sự đạo diễn của Pháp, ngay sau khi về nước, Bảo Đại đã đưa ra một loạt chính sách: canh cải hành chính, sửa đổi đường lối giáo dục, có nhiều ý kiến, dự định cải cách, canh tân. Bảo Đại đã cải tổ lại nội các, các quan già bị bãi bỏ, thay vào đấy là các thượng thư còn rất trẻ. Là một ông vua Tây học, ông bãi bỏ các hủ tục, nghi lễ phiền phức mà nam triều đã khuôn mình từ trước. Chính Bảo Đại còn xé rào cưới cho bằng được một người vợ là con gái thứ dân và khác đạo với hoàng gia. Bảo Đại bỏ chế độ đa thê, thực thi chế độ một vợ một chồng. Những điều này có sự ảnh hưởng, mối liên hệ rất lớn đến mục tiêu của Tự lực văn đoàn đó là cổ vũ cho một lối sống mới, cải cách xã hội đem đến cho xã hội một không khí vui vẻ, trẻ trung.
Dưới chế độ thuộc địa Pháp, ở nước ta một hệ thống đô thị hiện đại, với tầng lớp thị dân có sinh hoạt vật chất, tinh thần, lối sống khác hẳn cư dân các đô thị thời phong kiến. Trong đó có tầng lớp phú hào tân đạt, những doanh thương, nghiệp chủ, có thể gọi là tầng lớp tư sản bản xứ trở nên giàu có, sống đời trưởng giả: có xe hơi, biệt thự, nhà lầu, đồn điền, nhà cho thuê...yêu chuộng nếp sống theo khuôn mẫu người Tây. Bên cạnh đó là tầng lớp trung lưu đông đảo: công chức bảo hộ, tiểu thương, tiểu chủ, thị dân…có việc làm tương đối ổn định, có cửa tiệm, gánh hàng, có việc làm để kiếm tiền, sống dễ dàng hơn dân quê chân lấm tay bùn. Họ yêu mến nếp sống thị thành mà họ cho là tự do hơn, dân chủ hơn, tiện nghi hơn, văn minh hơn. Hàng năm các trường Pháp Việt cao cấp, trung cấp lần lượt cho ra đời đông đảo hạng trí thức mới. Họ không còn là những ông đồ nửa Nho nửa Tây như giai đoạn trước nữa, mà là những trí thức tân học trẻ trung không hề biết, hoặc biết rất ít Hán học. Họ thạo Pháp văn, có thể tiếp xúc, thâm nhiễm tri thức, tư tưởng, văn hoá phương Tây từ học đường, sách báo. Một số người được qua Pháp du học, trực tiếp hít thở không khí xã hội Tây, hấp thụ tư tưởng tự do, dân chủ và nếp sống văn hoá phương Tây. Lớp trí thức mới này, phần nào thấy được nỗi nhục của thân phận người dân mất nước. Một số lên tiếng đòi tự do chính trị, nghề nghiệp. Mặt khác, họ cũng phản tỉnh, thấy xứ mình, dân mình chìm đắm trong đói nghèo, tăm tối, trong hủ tục lạc hậu, cần phải cải cách, canh tân, thấy đạo Tống Nho trong thực tế đã đưa xã hội ta vào vòng ngưng trệ, tù hãm. Vì thế, họ dứt khoát từ bỏ cuộc đời cũ biến cải và thay đổi hoàn cảnh. Họ khao khát sống tươi trẻ, tự do với thời hiện đại Chính tầng lớp thị dân mới này là công chúng của nền văn học mới, là độc giả đón nhận nồng nhiệt văn chương lãng mạn và Tự lực văn đoàn. Họ cũng là thánh địa, là miền đất hứa mà nhiều tác giả muốn khám phá, phát biểu, và qua đó bộc lộ quan điểm sáng tác của mình. Các nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam đều là những nhà trí thức Tây học có tư tưởng cấp tiến , đầu óc dân chủ và mong muốn xây dựng cho văn chương nước nhà một nền văn chương có bản sắc dân tộc. Trong Tự lực văn đoàn cũng có hai thành viên là hai nhà thơ chủ chốt của phong trào Thơ mới là Xuân Diệu và Thế Lữ. Họ cũng là những người nghệ sĩ kiểu mới có tình cảm dân tộc, đề cao bình đẳng, dân chủ, chuộng tự do cá nhân. Tự lực văn đoàn và Thơ mới như hai bó hoa đẹp của văn chương khi bước vào thời hiện đại. Những trang văn của Tự lực văn đoàn cũng như áng thơ của phong trào Thơ mới đã đáp ứng được một phần yêu cầu và mong ước của độc giả. Tự lực văn đoàn sớm gây được uy tín và dần chiếm lĩnh văn đàn nhờ những cây bút sắc sảo tài năng và khả năng tổ chức văn học rất hiệu quả. Quan niệm nghệ thuật mà họ theo đuổi là quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”.

Đánh giá về Tự lực văn đoàn có nhiều ý kiến khác nhau, khen có, chê có. Song, khách quan, công bằng mà nói : “Tự lực văn đoàn có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự mở đầu cho một giai đoạn và khi một giai đoạn mới được mở ra thì lại có nhiều hướng phát triển. Tự lực văn đoàn có công gợi mở, khai phá còn văn xuôi về sau phát triển nhiều màu vẻ” (Tô Hoài) (2, 414). Nhà văn Bùi Hiển cũng nhận xét về nhân vật trong tác phẩm của Tự lực văn đoàn với những ấn tượng đẹp: “Đó là những nhân vật có tính phản kháng. Họ dám chống lại lễ giáo, đạo đức của đại gia đình phong kiến. Họ khinh bỉ cả nguồn gốc quyền quý và lối sống bóc lột của gia đình mình như Dũng trong Đoạn tuyệtĐôi bạn. Mặt biểu hiện thứ hai là họ có tình yêu và tình bạn khá trong sáng và đẹp đẽ. Tất nhiên đây là thời kì đầu. Phần hạn chế rõ rệt nhất ở Nhất Linh và Khái Hưng là sự cách biệt giữa họ với những người lao động” (2, 20). Nhà văn Nguyễn Văn Bổng nhận xét : “Họ đã cho chúng tôi thấy văn chương là việc đúng đắn, sang trọng, gợi cho nhiều người ước muốn lấy nó làm lý tưởng cho đời mình. Nhìn lại trong thời đó, văn chương của Tự lực văn đoàn không giúp ích gì vào việc thức tỉnh lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh cách mạng của tuổi trẻ chúng tôi, trái lại là khác. Nhưng không phải vì vậy mà bỏ qua những đóng góp đáng kể của họ trong văn học nước nhà, nhất là về ngôn ngữ nghệ thuật” (2, 20). Tế Hanh cũng chỉ ra những hạn chế của Tự lực văn đoàn bên cạnh những ưu điểm đã được nhận xét: “Ngày nay, công tâm mà nói, văn xuôi Tự lực văn đoàn không còn lại được như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Tự lực văn đoàn có xu hướng đơn giản về tâm lí hay nói đúng hơn là họ chỉ miêu tả quen thuộc một số trạng thái tâm lí, nhất là trong quan hệ yêu đương nam nữ” (2, 20).

Vũ Tú Nam, nhà văn thuộc thế hệ những người viết văn trưởng thành sau Cách mạng tháng Tám, am hiểu khá sâu sắc về Tự lực văn đoàn. Khoảng cách thời gian tạo cho ông cái nhìn khách quan hơn về văn đoàn này: “Tự lực văn đoàn có đóng góp tích cực ở nội dung chống phong kiến , đấu tranh tự do, chống phát xít. Nghệ thuật có những cái mới, sách báo in đẹp, tổ chức giỏi. Ngày nay đọc lại Tự lực văn đoàn, ngay với Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân, những tác phẩm tiến bộ và tiêu biểu của hai ông chúng ta cám ơn những bước khám phá cho văn xuôi ta những năm ba mươi, nhưng rõ rang đọc Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố vào hơn” (2, 21). Nguyên Ngọc, nhà văn trưởng thành trong Cách mạng chống Pháp cũng có nhận định riêng: “Tôi nghĩ đóng góp của Tự lực văn đoàn đã định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Từ đầu thế kỉ, văn xuôi của ta phát triển theo một hướng mới. Đầu tiên là các nhà nho ảnh hưởng Tây học như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học. Rồi đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là một bước phát triển quan trọng. Phải đến Tự lực văn đoàn, tiểu thuyết mới thật sự có hình thức hiện đại của nó. Và từ đấy cho đến nay tiểu thuyết đã phát triển trên nửa thế kỉ với nhiều đổi thay nhưng chưa thoát khỏi mô hình tiểu thuyết do Tự lực văn đoàn tạo ra”. (Tự lực văn đoàn định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại). Huy Cận, cộng tác viên thân cận nhất của Tự lực văn đoàn, đã có nhận xét chung thỏa đáng về Tự lực văn đoàn: “Có thể nói Tự lực văn đoàn đóng góp vào văn học sử Việt Nam. Họ có hoài bão về văn hóa dân tộc. Họ có điều kiện để đi vào chuyện văn chương. Đáng phê phán nhất ở Tự lực văn đoàn cũng như Khái Hưng, Nhất Linh là chặng cuối đời. Nhưng cũng đừng vì lăng kính đó mà đánh giá sai họ. Lúc đầu họ có lòng yêu nước thật sự nhưng chọn nhầm đường và cuối cùng là phản động. Các nhà văn trên rơi vào chủ nghĩa cải lương tư sản. Tôi không chịu được lòng thương dân của những ông chủ đồn điền. Tự lực văn đoàn đã có đóng góp lớn vào nghệ thuật tiểu thuyết , vào tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào tiếng nói của câu văn của dân tộc với lối văn rất trong sáng và rất Việt Nam” (2, 418).

Trong tiến trình văn học Việt Nam thời kì hiện đại , Tự lực văn đoàn hơn lúc nào hết so với các giai đoạn trước đây được đánh giá công bằng và đúng đắn với tinh thần tôn trọng một phần di sản văn chương của văn học dân tộc trong thời kì hiện đại. Cho dù vẫn còn những hạn chế song không thể phủ nhận được vai trò của Tự lực văn đoàn và thành tựu trên con đường văn chương mà tám thành viên của văn đoàn đã tạo dựng trong suốt chặng đường từ 1932 đến năm 1942.

1.2 Chủ đề chính trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn

Chủ đề chính trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn nói chung đó là chủ đề về dân tộc và chống lễ giáo phong kiến

1.2.1 Xu hướng dân tộc trong văn chương Tự lực văn đoàn

Trong tôn chỉ của Tự lực văn đoàn có những điều đáng ghi nhận trong nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa và văn học nước nhà như điều 1, 4, 6 và điều 9. Cho dù những tôn chỉ của văn đoàn không trực tiếp tham gia vào nhiệm vụ đấu tranh chính trị của dân tộc nhưng nó vẫn có ý nghĩa xã hội đáng trân trọng.

Tự lực văn đoàn có ý thức xây dựng nền văn học mang bản chất dân tộc. Cái khó khăn của họ là những ngăn cách về giai cấp nên khó phát hiện cái đẹp trong cuộc đời những người lao động vất vả ở thành thị, nông thôn góp phần tạo nên cốt cách cơ bản của hồn dân tộc. Nhưng tính văn nghệ dân tộc như cánh hoa xòe rộng có vẻ đẹp hương thơm, hình dáng, màu sắc và Tự lực văn đoàn đã biết khai thác chỗ mạnh của mình. Nhà thơ Lưu Trọng Lư đã nhận xét: “Điều tôi muốn lưu ý là phải tìm ở họ cái gì của Việt Nam. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn có ý thức khai thác cảnh vật, con người Việt Nam . Cốt truyện, con người đều gắn với những chuyện xảy ra trong cuộc sống. Những nhân vật phụ nữ của Khái Hưng như Mai (trong Nửa chừng xuân), Liên (trong Gánh hàng hoa) và Liên (trong Đoạn tuyệt) đều là những cô gái Việt Nam nết na, thuần hậu. Thiên nhiên trong nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn rất đẹp, đó là thiên nhiên nhiều miền quê Việt Nam, đặc biệt là của vùng trung du”. Thơ mới cũng tôn vinh dân tộc trong thơ ca, tình yêu quê hương, dân tộc qua những trang thơ đầy tình cảm với dân tộc, với một thiên nhiên đẹp nhiều màu vẻ và sử dụng ngôn ngữ dân tộc chọn lọc, gợi cảm.

Nhân vật trong tác phẩm của Tự lực văn đoàn là những hình tượng nhân vật mang tính biểu tượng mơ hồ của lòng yêu nước, những suy nghĩ chín chắn của người trí thức trước thời cuộc. Dũng (trong Đoạn tuyệt) là nhân vật nuôi chí hướng theo đuổi mộng ước xa xôi. Trong tư tưởng của nhân vật này có lúc đã day dứt về tình cảnh đất nước và nhân dân. Khái niệm về đất nước mà tác giả thể hiện qua nhân vật còn mơ hồ, nhất là đất nước nô lệ và ý thức về dân vì không tìm thấy hướng giải thoát: “Chiều hôm ấy, Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bực vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Nhà phê bình văn học Đỗ Đức Dục cho rằng: “Chỉ cần một chút trung thực lịch sử cũng có thể nhận thấy rằng những hình tượng nhân vật như Dũng trong Đoạn tuyệt, như khách chinh phu hay cái ẩn dụ con hổ nhớ rừng nổi tiếng của Thế Lữ đã thật sự tác động đến tinh thần yêu nước của thanh niên Việt Nam những năm ba mươi…” (2, 564).

Cốt truyện trong tiểu thuyết và truyện của Tự lực văn đoàn không vay mượn, mô phỏng những cốt truyện của Tây, Tàu như trong giai đoạn trước mà là truyện quen thuộc của người Việt Nam. Có thể tìm thấy bao cốt truyện mang đặc tính quen thuộc của dân tộc, có khi ở thôn quê, có khi ở chốn thành thị, chuyện người nghèo khổ, chuyện người giàu có nhưng suy cho cùng cũng là cuộc sống và con người Việt Nam. Ví như truyện của Thạch Lam ta thường bắt gặp cảnh làng quê, phố huyện dân dã, quen thuộc với những người lao động nghèo khổ.

Một trong những điểm quan trọng thể hiện tính dân tộc trong tác phẩm của Tự văn đoàn đó là thái độ đối với chính quyền thực dân phong kiến. Tự lực văn đoàn tiền hành hoạt động của mình trên nhiều bình diện, sáng tác văn chương, hoạt động báo chí và xuất bản. Nhạy cảm nhất với thời cuộc là hoạt động báo chí. Hai tờ báo Phong hóaNgày nay gây ấn tượng trong bạn đọc, được nhiều người quan tâm: Phong hóaNgày nay không được chính quyền thực dân ưa chuộng mà luôn ở thế tờ báo phải ứng xử khôn khéo đối phó với những bất trắc dễ nảy sinh và chính quyền thực dân cũng luôn theo dõi để răn đe trừng phạt. Văn đoàn chủ yếu sử dụng yếu tố trào phúng châm biếm để phê phán những hiện tượng chướng tai gai mắt trong đời sống chính trị. Do vậy, tờ Phong hóa đã bị đình bản mà theo Tú Mỡ là do việc châm chọc vào chuyện Bảo Đại sang Pháp xin thêm quyền hạn cho Nam triều. Trong mục Trước vành móng ngựa Hoàng Đạo đã mô tả các nhân vật tai to mặt lớn trong đám thực dân phong kiến đi ngược với ý dân với một nghệ thuật độc đáo biến cái tòa án Pháp thành một cái sân khấu trò hề tàn nhẫn, khiến người đọc phải cười ra nước mắt. Hội họa cũng góp một phần quan trọng giúp cho hai tờ báo kí gửi và bộc lộ quan điển chính trị - xã hội rất sâu sắc qua cách thể hiện trào phúng châm biếm sinh động. Tuy nhiên, Tự lực văn đoàn không dám trực diện tấn công vào chế độ thực dân Pháp mà chủ yếu nhằm vào những hoạt động cụ thể của việc quản lí nhà nước và đặc biệt là phê phán bọn quan lại phong kiến.

1.2.2 Xu hướng giải phóng cá nhân và cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến

Dưới chế độ thực dân phong kiến, mỗi người dân Việt Nam đều không có điều kiện phát triển quyền tự do chính đáng của mình. Rất nhiều quyền lợi cá nhân bị tước bỏ. Quyền con người bị hạn chế đến mức tối thiểu. Sống trong gia đình phải phụ thuộc vào cha mẹ, không có quyền tự do hôn nhân, ngoài xã hội không có điều kiện thực hiện quyền tự do công dân. Sự giải phóng cá nhân đã trở thành niềm khao khát và chưa bao giờ vấn đề quyền tự do lại trở nên bức thiết hơn thế. Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới cùng chung tiếng nói đấu tranh đòi quyền tự do cá nhân. Hai tác phẩm Nửa chừng xuân của Khái Hưng và Đoạn tuyệt của Nhất Linh là hai mũi nhọn tấn công mạnh mẽ và có hiệu quả vào dinh lũy của đại gia đình phong kiến. Nửa chừng xuân miêu tả trực tiếp hai thế hệ đối chọi nhau. Một bên là bà Án, loại hình nhân vật phổ biến trong nhiều tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, người giữ quyền uy trong gia đình, ích kỉ, tàn ác, sẵn sang chà đạp lên quyền sống và nhân cách của người khác. Một bên là Mai, người con gái có bản lĩnh trọng nhân cách, không chịu lùi một bước trước sức tiến công của thế lực phong kiến. Mai và Lộc yêu nhau nhưng không được bà Án – mẹ Lộc chấp nhận. Bà tìm cách xua đuổi Mai, chia rẽ Lộc và Mai khiến người con gái bụng mang dạ chửa ấy phải trải qua nhiều cảnh đời khổ cực, nhưng rồi cuối cùng Mai là người thắng thế. Người vợ do bà Án cưới cho Lộc không có con, bà Án đành phải tìm đến Mai, van nài để đón hai mẹ con về nhưng với thân phận làm lẽ. Mai khước từ và phê phán chế độ đa thê, giữ vững vị thế của người phụ nữ có phẩm chất. Thực ra Mai không chỉ phải chịu đựng những cảnh bất công và đau khổ trong chuyện gia đình riêng. Mai còn bị những thế lực cường hào lý dịch áp bức như Hàn Thanh o ép đòi lấy Mai làm lẽ. Cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến thể hiện rõ nét qua những trang viết, những chương độc thoại trực tiếp giữa các nhân vật đối lập. Nhân vật Huy, em trai Mai, đã nói thẳng thắn với bà Án: “Thưa cụ, cụ tức là cái biểu hiện, tức là một người đại diện cho cái nền luân lý cũ. Mà tâm lý chúng cháu thì đã trót nhiễm cái tư tưởng mới. Hiểu nhau khó lắm thưa cụ. Cụ với bọn hậu sinh như chúng cháu như hai con song cùng một nguồn, cùng chày ra bể nhưng mỗi đàng chảy theo một phía dốc bên sườn núi gặp nhau sao được”. Tác phẩm Nửa chừng xuân, mặc dù còn nhiều hạn chế song đây vẫn là tác phẩm có nhiều giá trị, tiến công vào đạo đức bảo thủ của đại gia đình phong kiến, tạo sự đồng tình đông đảo từ phía bạn đọc.

Trong Đoạn tuyệt, Nhất Linh đã sáng tạo nên bức tranh , một cảnh ngộ gia đình với những xung đột nặng nề, quyết liệt giữa cái cũ và cái mỡi. Không “nửa chừng” như Nửa chừng xuân, câu chuyện trong Đoạn tuyệt đúng như tên gọi của nó được giải quyết triệt để không thỏa hiệp nửa vời. Loan, người con gái tân học làm dâu nhà bà Phán, Loan phải chịu đựng cuộc sống nhọc nhằn, nhục nhã. Bị hành hạ về cuộc sống vật chất và tinh thần., Loan là nạn nhân cô đơn trong căn nhà xa lạ này. Người mẹ chồng độc ác thường lôi kéo những đứa con gái thành một phe cánh chống lại con dâu. Nhưng ở đây còn có thêm một lực lượng nữa là Thân, chồng của Loan. Loan trong tình trạng thân cô, thế cô không biết bấu víu vào đâu. Bị hành hạ, đày đọa, Loan phải tự bảo vệ mình nhất là khi bị xúc phạm đến danh dự và phẩm giá con người. Loan nói với mẹ chồng thẳng thắn và kiên quyết: “Không ai có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi. Bà cũng là người, tôi cũng là người, không ai hơn kém ai”. Tác giả đã nhắc đến quyền con người, một vấn đề rất nhạy cảm lúc bấy giờ. Con người bị xúc phạm như một con vật, con người phải phản kháng. Tình thế bị đẩy đến chân tường, xung đột phải giả quyết, cái thiện, cái tốt bị chà đạp phải lên tiếng và có sự ủng hộ của cộng đồng. Nhất Linh đã đưa vấn đề vượt ra khỏi phạm vi gia đình, thành vấn đề của công luận. Tác giả đã sử dụng một tình huống ngẫu nhiên dẫn đến cái chết của Thân, người đã ngã vào đúng chiếc dao rọc giấy mà Loan dung để bảo vệ mình. Loan bị quy tội và đây là một dịp bày tỏ hoàn cảnh trước công luận. Chế độ đại gia đình phong kiến đã đẩy bao người vào hoàn cảnh đau khổ. Loan đã được bênh vực ở toàn án qua lời biện hộ hùng hồn, thuyết phục của trạng sư. Đó cũng là điều tác giả muốn gửi gắm, là tiếng nói lương tri, tiếng nói của công lý: “Giữ lấy gia đình. Nhưng xin đừng lầm giữ gia đình với giữ sự nô lệ. Cái chế độ nô lệ đã từ bỏ từ lâu, mỗi lần ta nghĩ đến còn rung mình ghê sợ! Ấy thế mà ngờ đâu còn cái chế độ khốn nạn đó trong gia đình An Nam”. Tự lực văn đoàn đã dùng nghệ thuật của mình để kiên quyết bênh vực cái mới và công luận xã hội cũng đã đổi khác. Tự lực văn đoàn đã thành công trong trách nhiệm xã hội nặng nề và phức tạp này.

Nhà văn Nguyên Ngọc đã nêu nhận xét: “Điều quan trọng nữa mà Tự lực văn đoàn mang lại là sự khám phá, khẳng định cá nhân trong xã hội. Quyền sống của cá nhân trong nền đạo đức cũ không được thừa nhận. Đánh giá về Tự lực văn đoàn, tôi nghĩ rằng phái chú ý đến nhiều mặt. Lâu nay hướng phân tích văn xuôi Tự lực văn đoàn thường chú ý về mặt chính trị và phân tích trong sự liên hệ, so sánh với cách mạng. Cần phải mở rộng them nhiều mặt tư tưởng và văn hóa khác của Tự lực văn đoàn. Tự lực văn đoàn là biểu hiện sự thúc đẩy của xã hội ta về sự nhận thức thế giới cá nhân”.

1.3 Những hoạt động chủ yếu của Tự lực văn đoàn

Tự lực văn đoàn là tổ chức văn chương gồm tám thành viên, bên cạnh hoạt động chính là sáng tác văn chương,văn đoàn còn đảm nhiệm nhiều hoạt động hỗ trợ khác đó là hoạt động tổ chức văn đoàn, xuất bản, báo chí và tổ chức Giải thưởng Tự lực văn đoàn. Ở lĩnh vực nào cũng đạt được hiệu quả.

Hoạt động tổ chức văn đoàn gồm hoạt động kết nạp, phân công và bồi dưỡng đoàn viên. Tự lực văn đoàn ban đầu chỉ có sáu thành viên là Long, Lân, Giư, Tú Mỡ, Thế Lữ và Tam là giám đốc. Sau đó kết nạp thêm Trần Tiêu và Xuân Diệu là cuối cùng. Ngoài ra còn có các cộng tác viên không ở trong tòa soạn và trong Tự lực văn đoàn: Cù Huy Cận (bút danh Huy Cận, Thơ mới), Trần Tán Cửu (Trọng Lang, phóng sự), Đoàn Phú Tứ (thơ và kịch), Đỗ Đức Thu (thơ, tiểu thuyết), Thanh Tịnh (tiểu thuyết), Tô Hoài (truyện ngắn), Nguyên Hồng (tiểu thuyết), Phạm Cao Củng (Phạm Thị Cả Mốc, thơ khôi hài), Bùi Hiển (truyện ngắn), Vi Huyền Đắc (kịch), Nguyễn Lan Hòa (Huyền Hà, truyện dịch), Lê Thạch Kỳ (Chàng thứ 13, khoa học)… Các họa sĩ: Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Nguyễn Cát Tường, Tô Ngọc Vân, Trần Bình Lộc, Trần Quang Trân, Lưu Văn Sìu, Lê Minh Đức, Nhất Sách. Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học họp những người đồng chí trong văn giới, người trong đoàn đối với nhau cốt có mối liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi tôn chỉ, hết sức giúp đỡ nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong công cuộc có tính cách văn chương. Khác với những người hoạt động văn học trước, họ là một nhóm có tổ chức chặt chẽ, gọn nhẹ, nhưng đều có tài, cùng chí hướng, say mê sự nghiệp văn chương. Những người trong nhóm Tự lực thường xuyên làm việc cùng nhau, họ bàn bạc, thảo luận, gợi ý, đặt chương trình cho nhau trong sáng tác. Họ sang với nhau như một nhà, cùng làm, cùng vui.

Về báo chí, người có công mở đầu cho hoạt động báo chí là Nhất Linh. Sau khi thất bại trong việc mở báo Tiếng cười, Nhất Linh đã mua lại tờ báo Phong hóa của Nguyễn Hữu Mai, Phạm Hữu Ninh đang “sống dở chết dở”, tái sinh và tổ chức lại hoàn toàn tờ báo và ra đời khoảng đầu tháng 7 – 1932. Tôn chỉ của Phong hóa đổi mới là: Hăng hái theo con đường mới, tìm lý tưởng mới. Không chịu khuất phục thành kiến, không làm nô lệ ai, không xu phụng một quyền thế nào. Lấy lương tri mà xét đoán, theo lẽ phải mà hành động. Lấy thành thực làm căn bản. Lấy trào phúng làm phương pháp, tiếng cười làm vũ khí. Mục đích tôn chỉ của báo chí Tự lực văn đoàn cũng chính là tôn chỉ của Tự lực văn đoàn mà báo chí có nhiệm vụ thực hiện. “Phong hóa của Nguyễn Tường Tam là báo trào phúng. Đó là loại trước nay chưa từng có. Có những mục viết bằng mẩu ngắn, gọn, vui. Có nhiều bức họa châm biếm khôi hài. Có thơ trào phúng, đả kích của Tú Mỡ. Có tiểu thuyết lãng mạn của Khái Hưng. Có thơ mới của Thế Lữ. Đọc Phong hóa để được vui, được cười, được giải trí, không mỏi mệt cho nên người ta thích” (Tú Mỡ). Trước hết, Phong hóa trông khác với những số báo đã ra: kiểu thiết kế mới bao gồm hình tiêu đề, biếm họa, giải đố ô chữ, quảng cáo, minh họa nằm trong bài viết và phông chữ độc đáo. Thứ hai nữa, tờ báo có văn phong khác lạ. Ngòi bút hài hước và châm biếm của Phong hóa không tha ai cả. Phong hóa chọc quê tất cả mọi người, từ các trí thức đi trước như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh và Tản Đà tới những nét trong xã hội Việt Nam mà báo thấy là lạc hậu và cổ lỗ. Dưới ngòi bút của họ, cả một xã hội gồm những ông tai to mặt lớn trong giới quan trường, học thuật, báo chí, văn chương, uy thế đến như Toàn quyền Brévié, Thống sứ Châtel, Khâm sứ Graffeuil, Hoàng đế Bảo Đại, Thượng thư Phạm Quỳnh, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, Đốc lý Virgitti, cho đến cả những nhân vật hủ lậu ở nông thôn mà biểu tượng là Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh... đều bị đem ra chế giễu, bị ngòi bút châm chọc của họ làm cho điêu đứng. Bằng tiếng cười của mình, Tự lực văn đoàn đã khéo léo hạ bệ các thần tượng phong kiến và thực dân, đưa chúng xuống đứng cùng hàng với đám chúng sinh khổ ải. Độc giả vui mừng với giọng văn mới mẻ và thiết kế hấp dẫn của báo. Chỉ trong vài tháng, số người đọc tăng gấp ba. Một năm sau, lượng lưu hành vượt quá 8.500 một tuần và Phong hóa trở thành một trong những báo được lưu hành rộng rãi nhất Bắc Kỳ. Sau sự thành công của Phong hóa, Tự Lực văn đoàn cho ra mắt một tờ báo mới mang tên Ngày nay vào tháng Một năm 1935. Báo này là một trong những diễn đàn sớm nhất của nhiếp ảnh ở Việt Nam nhưng dự án tỏ ra quá tân tiến vào thời điểm đó khi mà in ảnh khá tốn kém. Ngày nay đã đóng cửa sau 13 số. Khi Phong hóa bị kiểm duyệt và đóng cửa vào năm 1936, Tự Lực văn đoàn vực dậy Ngày nay và biến báo này thành tổ chức vận động cải cách chính trị và xã hội. Tờ báo cũng đánh dấu sự thay đổi của nhóm từ chế nhạo xã hội để mong mang lại cải cách sang mạnh mẽ đòi cải cách. Điều quan trọng nhất là Tự Lực văn đoàn dùng các tờ báo của nhóm để thúc đẩy chương trình cải cách toàn diện và động chạm tới nhiều tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Họ nhìn tới các xã hội phương Tây để tìm mô hình và vay mượn một cách có lựa chọn và có chủ định từ văn hóa phương Tây để đưa ra viễn kiến về một xã hội Việt Nam mà một ngày kia sẽ được các nền văn minh hiện đại xem là ngang hàng. Chương trình cải cách bao gồm nhiều vấn đề trong đó có quan hệ giữa thành thị và nông thôn, nghệ thuật, trang phục quốc gia, chính trị quốc tế và quốc nội, vấn đề liên quan tới phụ nữ, xuất bản, thời trang và kiến trúc. Trong thời kì Mặt trận Dân chủ, tờ báo Ngày nay đã có những bài viết bàn về quyền tự do báo chí và đề cao xu hướng dân chủ của Hoàng Đạo và một số tác giả khác. Tờ Phong hóa, Ngày nay ủng hộ các khuynh hướng văn chương có xu hướng cách tân rõ rệt, nhất là phong trào Thơ mới. Báo Ngày nay số1 ra vào ngày 30-1-1935 và tới ngày 7-9-1944, ra số 224 thì bị chính quyền thực dân rút giấy phép, đóng cửa hẳn. Tờ Phong hóa ra tới số 190, ngày 5-6-1936 thì đổi tên thành Ngày nay nhưng cũng vẫn do nhóm Tự lực văn đoàn đảm trách. Các tờ Phong hóa, Ngày nay đã có đóng góp cho sự phát triển chung của Tự lực văn đoàn và phong trào văn học. Nhìn chung Tự lực văn đoàn đã sử dụng có hiệu quả hoạt động báo chí qua hai tờ báo Phong hóa, Ngày nay để phục vụ cho văn đoàn.

Tự lực văn đoàn cũng chú ý đến hoạt động xuất bản. Có được cơ quan xuất bản riêng cho một văn đoàn cũng là điều lý tưởng và nhà xuất bản Đời nay được gây dựng. Mới đầu, Đời nay chỉ xuất bản những sách của nhóm Tự lực, sau họ cũng mở rộng ra xuất bản cả những sách được giải thưởng Tự lực văn đoàn, hoặc sách của các văn gia khác mà họ công nhận giá trị, và thấy không trái ngược với tôn chỉ của mình như tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Nguyễn Khắc Mẫn, thơ của Anh Thơ, Tế Hanh. Có thể đánh giá Đời nay là nhà xuất bản có uy tín và có ý thức giữ được sự tin cậy với người đọc qua những tác phẩm tốt được ấn hành. Mới đầu họ chuyên chú vào làm sách đẹp, sau để văn phẩm phổ cập đến nhũng tầng lớp ít tiền, họ cho ra loại sách bình dân, cũng in những tác phẩm ấy, nhưng bán rẻ hơn (loại Lá mạ, Nắng mới). Nhờ văn đoàn có cơ quan ngôn luận, có nhà xuất bản riêng mà Khái Hưng cùng những nhà văn, nhà báo Tự lực có điều kiện dễ dàng công bố sáng tác, đưa sáng tác nhanh chóng đến với bạn đọc, điều mà nhiều nhà văn mong ước và khó có điều kiện thực hiện được.

Giải thưởng Tự lực văn đoàn cũng là một hoạt động nổi bật góp phần phát huy ảnh hưởng của văn đoàn và đóng góp vào sự phát triển của phong trào sáng tác văn học. Thể lệ cuộc thi sáng tác gọi là “Giải thưởng tự lực văn đoàn” được công bố 3 tháng sau ngày văn đoàn thành lập, cũng đã được phổ biến trên Phong hóa số 101 ra ngày 8 tháng 6-1934. Giải thưởng Tự lực văn đoàn được bạn đọc tin cậy và qua sự lắng lại của thời gian càng thể hiện rõ tính chuẩn xác và hiệu qyar của công việc vốn khó khăn này. Trước hết là phải đánh giá đúng đắn giá trị của tác phẩm được Giải thưởng, tránh tình trạng trao tặng giải thưởng cho tác phẩm yếu kém. Đánh giá một tác phẩm trong thời điểm nó xuất hiện thường dễ nhầm lẫn vì nhiều yếu tố chi phối. Không khí và áp lực xã hội, những luồng chính kiến và quan niệm khác nhau, dư luận báo chi và thị hiếu quần chúng thường không dễ thống nhất. Giải thưởng Tự lực văn đoàn được trao hai năm một lần vào những năm lẽ 1935, 1937, 1939. Giải thưởng Tự lực văn đoàn không trao cho các thành viên Tự lực văn đoàn vì thế nó mang nhiều ý nghĩa. Tự lực văn đoàn lúc đó có thể xem là trung tâm cổ vũ cho phong trào Thơ mới đồng thời cũng là nồi ươm, chăm bón cho phong trào thơ. Giải thưởng Tự lực văn đoàn có tác dụng phát hiện trong phong trào sáng tác văn học những tác phẩm hay, những cây bút tài năng mới và khích lệ phong trào văn học nước nhà phát triển. Đây là một giải thưởng uy tín, một bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đoạt giải: Ðỗ Ðức Thu, Phan Văn Dật, Vi Huyền Đắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh... Thoạt nhìn đã có thể thấy, đây là một giải thưởng có tính phát hiện cao. Hầu hết các tác phẩm được giải là tác phẩm đầu tay, và nhiều tác phẩm trong số đó lúc ra mắt qua giải thưởng Tự lực văn đoàn, như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bức tranh quê của Anh Thơ... đã thành “hiện tượng” trong đời sống văn học. Và thật thú vị, những nhà văn chủ trì Tự lực văn đoàn, vốn được coi thuộc khuynh hướng lãng mạn, lại chọn biểu dương những cây bút gần như ngược hẳn với mình, đậm chất hiện thực xã hội, nhiều khi đến gay gắt. Có thể điều này rất quan trọng: giải thưởng do đó khêu gợi và quy tụ cả một dàn đồng ca rộn rã phong phú đa dạng như chưa từng có những tài năng mới, trẻ, góp phần tạo nên “cả một thời đại mới trong văn học” như cách nói của Hoài Thanh.
Ngoài ra, Tự lực văn đoàn còn có những hoạt động xã hội, tổ chức Hội ánh sáng tập hợp nhiều trí thức, văn nghệ sĩ đương thời tham gia cải cách đời sống cho người nghèo góp phần trực tiếp xây dựng cho xã hội cho dù hoạt động này vẫn còn mang tính chất cải lương.

2. Khái Hưng và vị trí của Khái Hưng trong tổ chức văn học Tự lực văn đoàn.

Nói đến Tự lực văn đoàn,chúng ta không thể không nhắc đến Khái Hưng, thuộc diện trụ cột trong tổ chức, có sáng tác phong phú và đóng góp nổi bật hơn cả ở lĩnh vực tiểu thuyết. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn chương Khái Hưng, về tiểu huyết của ông ở những khía cạnh, bình diện, mức độ khác nhau với những diễn biến phức tạp qua từng thời gian. Đến thời điểm này, đã hội tụ những điều kiện, kể cả độ lùi thời gian cần thiết để có thể nhận diện, đánh giá tiểu thuyết cũng như văn nghiệp của Khái Hưng một cách khách quan, khoa học.

2.1 Tác giả Khái Hưng

Khái Hưng (1986 – 1947) tên thật là Trần Khánh Giư. Ông sinh tại làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, nay thuộc thành phố Hải Phòng. Cổ Am là một làng nổi tiếng hiếu học và trọng văn hoá từ ngàn xưa, từng có nhiều đỗ đạt trong thời kỳ còn chế độ khoa cử Hán học. Ở đây người ta có hình thức tôn vinh những người học giỏi, đỗ đạt. Bởi vậy, trong các văn phẩm của mình, Khái Hưng luôn đề cao người có học, luôn đề cao văn hoá, điều đó có cội nguồn và cũng thật dễ hiểu. Thân phụ của Khái Hưng là cụ Trần Mỹ (vốn xuất thân trong gia đình dòng dõi khoa bảng), một cử nhân Hán học, từng làm tuần phủ tỉnh Thái Bình. Cụ có tập thơ Cổ phần lai khúc, đăng báo Nam Phong năm 1919. Cụ Trần Mỹ có tới năm người vợ, nên rất đông con. Khái Hưng là con bà vợ cả (Khái Hưng từng phải chịu cảnh dì ghẻ con chồng) và là anh trai nhà văn Trần Tiêu. Khi Khái Hưng buôn dầu ở Ninh Giang thất thoát hàng vạn đồng Đông Dương, cụ phải bán cả ruộng vườn, đồ cổ, ngà voi để trả nợ. Hưu trí, cụ Trần Mỹ nghỉ tại quê nhà, làng Cổ Am. Cụ Trần thường đọc kinh Phật và thơ. Nhạc phụ của Khái Hưng là cụ Lê Văn Đính (nguyên mẫu nhân vật án Báo trong tiểu thuyết Gia đình). Cụ cũng xuất thân gia đình khoa bảng, cũng là cử nhân Hán học, và từng làm tuần phủ, tổng đốc, rồi thượng thư. Cụ Đính người làng Dịch Diệp (Dịch Diệp cũng là làng văn hoá nổi tiếng từ ngày còn chế độ khoa cử Hán học. Xưa và nay đều có rất nhiều người đỗ đạt), huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Khác với cụ Trần Mỹ, cụ cử Lê Văn Đính chỉ có một người vợ, nhưng cũng rất đông con (sáu gái, một trai). Năm trong số sáu chàng rể của cụ có bằng tú tài Tây. Cậu ấm út có bằng cử nhân Pháp (Ông cử Nham, nguyên mẫu Hạc trong Gia đình. Ông này những ngày ngay sau Cách mạng tháng Tám từng làm phó chủ tịch huyện Trực Ninh. Khi Pháp quay lại chiếm Nam Định, ông lên Hà Nội và làm Đổng lý Văn phòng Bắc bộ phủ, sau đó đi dạy học). Như vậy, cả thân phụ và nhạc phụ của Khái Hưng đều là đại quan, đều làm công chức cho Pháp, nhưng có gốc văn hoá cũ, không phải là bọn tay sai bán nước cầu vinh, hoặc xuất thân từ thầu khoán, bếp bồi, thông ngôn,... mới phất, cho nên, tuy làm việc cho Pháp mà họ không thật đặc tin dùng và phần nào cũng có tư tưởng ghét Tây. Khái Hưng đã sống trong môi trường trưởng giả, nhưng ông cũng cò điều kiện tiếp xúc trục tiếp với tư tưởng, ý thức, nếp sống và văn hoá phương Tây. Khái Hưng cũng trải nghiệm cuộc sống đại gia đình với biết bao hủ tục, luật lệ phiền toái, lạc hậu, nhưng mặt khác trong hai cái đại gia đình Trần - Lê của ông cũng còn phảng phất dấu ấn đẹp của văn hoá cổ truyền khiến ông không thể dễ dàng phủ nhận sạch trơn.

Khái Hưng còn có các bút danh: Bán Than (Bán Than hay Trần Khánh Giữ đều là tên của Nhân Huệ Vương, một danh tướng về đời vua Trần Nhân Tôn, có công lớn trong bình Nguyên sau bị cách chức ra Chí Linh đốn củi đốt than, ông có bài thơ Vịnh bán than), Khái Hưng là bút danh chính, do xếp chữ Khánh Giữ mà thành. Ngoài ra còn Nhát dao cạo, Chàng lẩn thẩn, Tò mò và Nhị Linh.

Thủa nhỏ Khái Hưng học chữ Nho, 12 tuổi mới theo Tây học. Ông học trường Albert Sarraut, từng nổi tiếng là giỏi Pháp văn và tinh nghịch. Ông đã được Hội Trí tri Nam Định trao tặng giải nhất cho bản dịch vở hài kịch Les Pleideurs của Racine(1923). Trưng bầy tranh tại hội chợ Hà Nội, ông đã được tặng giải thưởng khuyến khích. Người ta cũng còn giữ được bản dịch của Khái Hưng về bài thơ Tình tuyệt vọng của Arvề và bài thơ Dưới trăng uống rượu một mình của Lý Bạch. Người ta cũng giữ được bức hoạ Trăng xưa, Khái Hưng vẽ mô tả nỗi buồn nhớ Nhất Linh, một bạn thân thiết vì công việc chống Pháp phải bỏ đi xa. Năm 1927, sau khi đậu tú tài Pháp phần một (ban triết học), Khái Hưng không tiếp tục học lên để ra làm quan như đa số bạn học cùng thời mà bỏ đi buôn dầu tại Ninh Giang. Vì tính phóng khoáng, bán chịu không thu được nợ, nhà văn thất bại sau ba năm kinh doanh tài tử. Ông bỏ Ninh Giang lên Hà Nội dạy học tại trường tư thục Thăng Long, một trường nổi tiếng lúc bấy giờ. Trong thời gian này, Khái Hưng còn làm chủ bút và viết một số bài đăng trên Phong hoá của Phạm Hữu Ninh từ số 1 đến số 13. Ông cũng viết nhiều bài nghị luận đăng Văn học tạp chí.

Năm 1931, Khái Hưng lập gia đình và lên Phú Thọ buôn sơn. Những cảnh và người vùng này sau được mô tả rất nhiều trong tác phẩm của nhà văn. Bà Khái Hưng tên thật là Lê Thị Hoà, biệt hiệu là Nhã Khanh, chính nhờ tài tháo vát của bà mà Khái Hưng khỏi phải lo nghĩ về sinh kế, để yên tâm sáng tác.

Cũng trong thời gian dạy học ở trường Thăng Long, Khái Hưng đã gặp Nhất Linh, vì cùng chung một quan niệm về văn chương, xã hội nên hai người nhanh chóng trở thành đôi bạn tâm giao (chính Nhất Linh trong lời đề từ tác phẩm Đoạn tuyệt của mình đã thừa nhận: " Tặng Khái Hưng, tác giả Nửa chừng xuân, nhà văn cùng quan niệm với tôi về xã hội hiện thời”). Tình cảm đó càng trở nên thân thiết khi mà Nhất Linh đã cho một người con (Trần Khánh Triệu) làm con nuôi Khái Hưng. Cùng với Nhất Linh, Khái Hưng đã tham gia ban biên tập báo Phong hoá rồi ở trong Tự lực văn đoàn, và trở thành nhà văn chủ chốt, có đóng góp lớn cho văn đoàn Tự lực.

Năm 1939, do biến chuyển của thời thế, Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, nhóm Tự lực văn đoàn nghiêng về hoạt động chính trị. Khái Hưng đã tham gia vào phong trào này, nhưng cũng do tình bạn chứ không phải là có tham vọng chính trị. Trần Khánh Triệu kể: " Theo lời mẹ tôi bản chất ba tôi là con người nghệ sĩ, nhưng về sau tham gia hoạt động chính trị cũng chỉ là thấy anh em làm, ba tôi cũng tha thiết muốn làm với anh em”. Rồi đến năm 1945, Khái Hưng nhận viết cho tờ Việt Nam, tờ Chính nghĩa, cũng chỉ vì "anh Tam, anh Long đã làm chả nhẽ mình lại xa anh em" . Hoạt động chính trị sai lầm của Khái Hưng ở cuối đời cũng chỉ ở mức không tìm ra con đường đúng, phù hợp với hướng đi của lịch sử nên có lúc chống phá cách mạng chứ không phải là cam tâm bán nước cầu vinh, cúi đầu làm nô lệ. Con người của Khái Hưng là con người của văn chương, của những tư tưởng lãng mạn chứ không phải con người của hành động, của thực tiễn làm chính trị.

Khái Hưng mất năm 1947 ở Nam Định.

2.2 Những hoạt động văn học chủ yếu của Khái Hưng

Trên lĩnh vực báo chí, Khái Hưng là nhà văn sáng tác dồi dào nhất Tự lực văn đoàn. Hoạt động báo chí và sáng tạo văn chương của Khái Hưng khá phong phú. Theo Tú Mỡ, tác giả đã tham gia rất nhiều mục trên báo Phong hoá Ngày nay. Trên báo Phong hoá nhà văn phụ trách các mục: Hạt đậu dọn (vạch làm trò chơi những câu văn viết sai), Cuộc điểm báo (nhặt nhũng điều sai trái lố bịch của các báo), những phóng sự về mặt trái của xã hội, đặc biệt là truyện ngắn, truyện dài. Trên báo Ngày nay, Khái Hưng phụ trách các mục: thời sự (cùng Tứ Ly, Đoàn Phú Tứ), phê bình (cùng Thạch Lam, Thế Lữ), kịch nói (cùng Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ), truyện ngắn, tiểu thuyết (cùng Nhất Linh, Thế Lữ, Thạch Lam, Đỗ Đức Thu, Thanh Tịnh, Trần Tiêu). Với vai trò nhà báo, Khái Hưng xuất hiện khá đều đặn trên Phong hoá Ngày nay. Dường như không mấy số là không có ông góp mặt. Viết báo, tác giả xoay quanh mấy đề tài: đấu tranh mới cũ, phê bình các báo, thời sự, chính trị... Từ mục đích, tôn chỉ của văn đoàn Tự lực là báo chí sống về độc giả, ngòi bút của tác giả theo dòng đời vận động, biến đổi thật mau lẹ. Những bài khảo cứu của Bán Than đăng trên Văn học tạp chí và Phong hoá trước lúc chưa đổi mới còn suy tư, tìm kiếm "sửa sang vườn cũ cây xưa, biết cái hay thì nêu ra để lấy đấy mà trau dồi biết cái giở cũng nêu ra để người nhớ lấy mà ruồng bỏ, đến ngòi bút của Nhị Linh trên Phong hoá thì đã chuyển hẳn sang lập trường duy tân cấp tiến, triệt để theo mới, bỏ vũ chống hủ tục, tệ đoan, chống tinh thần hương đảng, phê phán lễ giáo lỗi thời đưa ra một lối sống mới, đề cao tư tưởng tự do phương Tây... đến những bài báo của Khái Hưng đăng trên báo Ngày nay trong chuyên mục Chuyện kết luận bàn luận về thời sự, chính trị, chiến tranh và hoà bình, các ông nghị, các chính đảng, đôi khi dòng đời đã xô đẩy tác giả đi khá xa cái tôn chỉ, mục đích của văn đoàn ngày nào, khiến ông có lúc đả phong bài thực rất mạnh mẽ, có lúc lại tỏ ra non nớt, ngây thơ, thậm chí có cả sa chân, lạc bước. Ông cũng viết các bài nghị luận và cũng đã từng cho rằng đó là thế mạnh của mình trước khi ông viết tiểu thuyết.

Ở lĩnh vực văn chương, Khái Hưng viết cả truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết nhưng thành công hơn cả ở mảng tiểu thuyết. Khái Hưng có cách viết tiểu thuyết độc đáo. Do vậy văn nghiệp của Khái Hưng là văn nghiệp tiểu thuyết.

Tác phẩm chính: tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên (1933), Đời mưa gió (viết chung với Nhất Linh, 1933), Nửa chừng xuân (1934), Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934), Trống mái (1936), Gia đình (1936), Tiêu Sơn tráng sĩ (tiểu thuyết lịch sử - 1937 - 2 tập), Thoát ly (1938), Hạnh (1938), Thừa tự (1938), Đẹp (1940), Thanh Đức (1942).
Các tập truyện ngắn: Dọc đường gió bụi (1936), Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh - Nxb. Đời nay, Hà Nội, 1934), Tiếng suối reo (Nxb Đời nay, Hà Nội, 1935), Đợi chờ (Nxb Đời nay, Hà Nội, 1940), Cái Ve (Nxb Đời nay, Hà Nội, 1944)…
Kịch: Tục luỵ (1937), Đồng bệnh (1942), Nhất tiểu Khúc nghê thường, Quần tiêu hội tụ…

Về kịch, Khái Hưng có bốn tập chính: Tục luỵ, Đồng bệnh, Nhất tiểu Khúc nghê thường. Trong các tập truyện ngắn rải rác cũng xen một vài kịch ngắn. Nếu sưu tầm hết kịch của tác giả đăng trên báo Phong hoá Ngày nay số tác phẩm của ông có thể lên đến hơn 30. Kịch của nhà văn phần lớn là tiểu phẩm, ngắn gọn, nhẹ nhàng, vui vẻ, nêu lên một vài sự kiện, tâm sự đáng cười, đáng quan tâm. Tuy nhiên đôi khi cũng có những tác phẩm ngu một ý tình sâu sắc tinh tế. Kịch của Khái Hưng đều là những vở kịch nhẹ nhàng, gần như những vở bong lơn chứ không có tính chất của đại hài kịch. Nhìn một cách tổng thể, kịch của Khái Hưng, phong phú, dồi dào nhất nhóm Tự lực văn đoàn.

Về truyện ngắn, sáng tác của nhà văn nếu gom hết có thể đến vài trăm truyện. Chỉ tính riêng 8 tập truyện đã được xuất bản cũng đã là 114 truyện. (Đội mũ lệch: 27, Dọc đường gió bụi: 12, Tiếng suối reo: 24, Hạnh: 5, Số đào hoa: 5, Cái ve: 13, Đợi chờ: 17, Cắm trại: 1, và Lời nguyền: 6). Sự tuyển chọn trong các tập trên chưa phải đã thâu tóm hết những truyện tiêu biểu. Đọc báo Phong hoá, Ngày nay, ta có thể tìm thấy một số truyện toà nữa. Khái Hưng có nhiều truyện ngắn hay, quan sát tài tình, ngòi bút điêu luyện thể hiện một khía cạnh trong văn tài của ông. Tác giả đã dựng người, dựng việc rất bình dị nhưng khơi gợi, cảm động. Bút pháp, giọng điệu lại đa dạng: khi bông đùa, dí dỏm, lúc triết lý ngụ một ý, tình sâu xa, man mác, thơ mộng. Tuy nhiên, truyện ngắn của ông chất lượng không đồng đều, có những truyện đơn giản, ý nghĩa không sâu xa, chỉ là truyện vui, truyện phiếm, thậm chí còn như viết nháp, viết để lấp cho đầy cột báo. Truyện nhi đồng của Khái Hưng cũng đầy thi vị, vui, thường hợp với tâm lý trẻ em. Có thể xem đây là những giai phẩm nho nhỏ không phải không đáng kể trong các tác phẩm thành công nhất của ông.

Về tiểu thuyết, đây là mảng ông đạt được nhiều thành công nhất. Đọc tiểu thuyết của Khái Hưng, người ta nhận thấy lúc đầu ông là một nhà tiểu thuyết về lý tưởng, dần dần ngả về phong tục là loại ông có nhiều đặc sắc nhất, rồi cho đến Hạnh, ông bắt đầu khuynh hướng về tâm lí. Trong các tác phẩm Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Hòn trống mái đều là tiểu thuyết về lí tưởng, tiểu thuyết tình yêu của Khái Hưng. Cái tình yêu của Ngọc, Lan trong Hồn bướm mơ tiên là thứ ái tình thanh cao quá, thứ ái tình lý tưởng đặc biệt, ít khi có thể thấy ở một đôi trai gái yêu nhau. Khi Ngọc đã khám phá ra chú tiểu Lan là gái, Lan bị “ái tình tôn giáo hai bên lôi kéo”, mà “hai cái mãnh lực ấy lại tương đương nên tâm trí càng bị thắt chặt vào hai tròng”. Rốt cục, tuy Lan rất yêu Ngọc nhưng nàng say đạo Phật hơn, và muốn tránh khỏi sự cám dỗ, nàng định trốn lên thượng du, tìm một chùa khác để tu cho xa hẳn Ngọc. Nhưng chàng thanh niên này khuyên nàng không nên đi và thề rằng không dám sàm sỡ, chỉ những ngày nghỉ chàng sẽ lên thăm Lan và “chân thành thờ cái linh hồn dịu dàng của Lan ở trong tâm trí”. Chàng lại ngỏ với người yêu mình rằng “suốt đời chàng sẽ không lấy ai, chỉ sống trong cái thế giới mộng ảo của ái tình lí tưởng”. Thà một gái như Lan nhiễm đạo Phật từ lâu nên có tư tưởng thoát tục đã đành; còn Ngọc, một sinh viên trường Cao đẳng, một người Tây học lại quyết chí theo đuổi chú tiểu Lan kể cũng là điều lạ. Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân là những cuốn tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết mà tác giả dựng lên những cái cao quá, người ở thế gian này không thể nào có được. Nửa chừng xuân còn có khuynh hướng về phong tục nữa: vai bà Án cho người ta thấy uy quyền của người mẹ trong gia đình Việt Nam quý phái và cả những cái hay cái dở của cái quyền hành ghê gớm ấy. Trống mái cũng là tiểu thuyết lí tưởng như hai tác phẩm trên nhưng cái lí tưởng ở đây là lí tưởng về thân hình đẹp theo quan niệm mĩ thuật của một hạng gái mới Việt Nam mà Hiền là người tiêu biểu. Hiền là một cô gái thuộc hạng phong lưu, ưa thích thể thao và có tư tưởng mới, có quan niệm mới về cái đẹp của thân thể. Nàng say mê Vọi, một chàng trai đánh cá có bắp thịt rắn chắc và một bộ ngực nở nang. Nhưng nàng say mê mà không yêu. Chỉ say mê mà không yêu là một diều khó, vì bước đầu của tình yêu là sự say mê cái đẹp hình thức hoặc cái đẹp tinh thần. Vậy mà Hiền chỉ thích Vọi như thích một pho tượng, như cái thích của một nhà mĩ thuật. Đây là một sự rất hiếm, không thiết thực. Tiểu thuyết Tiêu sơn tráng sĩ: yêu nhau trong sự nghiệp cách mạng giữa Trần Quang Ngọc và Nhị Nương, giữa Phạm Thái và Quỳnh Như. Ngoại lệ có hai cuốn tiểu thuyết của Khái Hưng: Đẹp (1940): ái tình nghệ sĩ giữa họa sĩ Nam và Lan và Băn khoăn (1942): hai cha con ông Thanh Đức, một nhà kinh doanh cự phú, và Cảnh, sinh viên trường Luật, cùng yêu một cô gái sắc đẹp lộng lẫy. Cha muốn cưới vợ bé, con muốn chinh phục. Cô gái thì yêu cả hai người, người cha vì tiền bạc, người con vì trẻ trung. Hai cuốn này xa rời hoàn toàn quan niệm yêu nhau trong linh hồn, thờ nhau trong lý tưởng của Hồn bướm mơ tiên, của Nửa chừng xuân.

Tiểu thuyết về gia đình có ba tác phẩm quan trọng: Gia đình (1935): chuyện kể cuộc đời ba cô con gái của một gia đình quyền quý ông bà án Báo. Hai cô con đầu lấy tri huyện, sống cuộc sống chán nản trong nghề làm quan. Chỉ có cô út Bảo, lấy Hạc, sinh viên trường thuốc, bỏ học đi làm đồn điền, sống hạnh phúc, đơn giản với ý nguyện làm cho người khác hạnh phúc. Gia đình là bản cáo trạng kết án lễ giáo phong kiến về nhiều phương diện: chế độ quan trường, thói háo danh, ma chay, khao vọng, giỗ chạp... Những vấn đề này đã được Khái Hưng bộc lộ qua nhiều bài báo rất sắc sảo trước đó. Thừa tự (1936): vạch ra bề trái của một gia đình quý phái, xào xáo nhau vì chuyện ăn thừa tự gia tài. Với tác phẩm Thừa tự tác giả phản ánh mâu thuẫn của hai thế hệ mới cũ, giữa vợ kế và con chồng xoay quanh vấn đề thừa tự. Đây là tiểu thuyết phong tục có giá trị của Khái Hưng và cũng rất hiếm vào lúc này. Thoát ly (1936): tiểu thuyết có tính cách luận đề. Thoát ly là lối chọn cái chết của Hồng để phản kháng ngục thất gia đình. Thoát ly tiếp tục phê phán chế độ đa thê, quan hệ dì ghẻ con chồng, khẳng định hôn nhân tự do một vợ một chồng.

Hạnh là một tiểu thuyết ngắn của Khái Hưng, một tâm lý tiểu thuyết, nói lên tầm quan trọng của việc giáo dục đến trẻ con. Đây là một tiểu thuyết có tính giáo dục rõ rệt. Trong tiểu thuyết Hạnh, cái tính tình nhút nhát và mặc cảm bị bỏ rơi của nhân vật Hạnh được Khái Hưng miêu tả rất đúng và tuyệt hay. Hạnh là một người nhút nhát do hoàn cảnh gia đình và giáo dục tạo nên. Nhưng một biến cố đã làm xáo trộn tâm hồn chàng. Chàng ngã xe đạp và được ông bà chủ đồn điền Lâm hảo tâm đem về nhà cứu chữa. Được sống một buổi lạc vào cái sinh hoạt đầy đủ lịch sự, ấm cúng, trường giả của chủ ấp, sự chăm sóc của bà chủ và cô em đã khiến Hạnh xiết bao cảm động, sung sướng. Tâm chí chàng mê man bao nhiêu cảm giác, ám ảnh, bâng khuâng trước những lời nói, cử chỉ... của họ. Từ Hồn bướm mơ tiên cho đến Hạnh, tập gần đây nhất của ông thì ở Khái Hưng đã thấy sự chuyển biến từ việc chú trọng vào lý tưởng, rồi dần lưu tâm đến thực tế, viết những cuốn tiểu thuyết phong tục, tả thực, lấy sự chân xác làm điều cốt yếu. Và, cuối cùng, Khái Hưng có khuynh hướng về tiểu thuyết tâm lí mà Hạnh là một minh chứng. Nhưng cho dù ở tiểu thuyết tâm lí, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm lí, cái đặc sắc mà người ta thấy trong các văn phẩm của Khái Hưng là sự nhận xét rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt Nam. Chính vì vậy, Khái Hưng còn được mệnh danh là “nhà văn của thanh niên”. Bây giờ người ta vẫn chưa thể đoán trước được bước đường tiến hóa trong tiểu thuyết Khái Hưng, nhưng đến nay người ta vẫn đánh giá tiểu thuyết phong tục của ông ở vị trí cao hơn.

Qua các tiểu thuyết trên, cũng như toàn bộ các tập truyện ngắn, kịch của Khái Hưng, nhiều nhà phê bình văn học đồng ý những điểm chung sau: Bố cục giản dị, khéo léo; Tình tiết thưa ít, không có những ngoắt ngoéo ly kỳ; Không đưa đến có hậu như chuyện nôm xưa; Không tả cảnh rườm rà, không bàn luận lôi thôi, lời văn giản dị, nhanh nhẹn, duyên dáng, hồn nhiên; Khuynh hướng hài hước đối với nhân tình thế thái, những lố bịch xã hội, phong tục; Lòng thương rộng rãi đến những khốn khổ và khuyết điểm của con người. Đây chính là những điểm phân biệt ông với các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn.

2.3 Vị trí của Khái Hưng trong tổ chức văn học Tự lực văn đoàn và trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Khái Hưng là cây bút có nhiều đóng góp quan trọng cho tổ chức văn học Tự lực văn đoàn nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

Tự lực văn đoàn là cái vườn ươm nuôi dưỡng mọi tài năng của văn đoàn Tự lực. Tham gia Tự lực văn đoàn, Khái Hưng đã được Nhất Linh và những người Tự lực góp ý khuyến khích, cổ vũ, ông đã chuyển biến cùng các bạn trong văn đoàn. Và cũng chính nhà văn đã góp phần rất lớn làm rạng rỡ cho văn đoàn, làm cho người ta yêu mến, tin ông và văn đoàn của ông. Tổ chức văn học Tự lực văn đoàn có quan hệ và ảnh hưởng rất lớn đến phong cách sáng tác và sự nghiệp văn chương của Khái Hưng và ngược lại trong tổ chức Tự lực văn đoàn, Khái Hưng có vai trò quan trọng không thể phủ nhận.

Trước hết, với vai trò là người sáng lập, Khái Hưng cùng Nhất Linh đã trở thành những người sáng lập, và Khái Hưng là một trong những biên tập viên đầu tiên của báo Phong hóa. Ông là thủ lĩnh nhóm Tự lực văn đoàn, cùng với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam đã biến Tự lực văn đoàn trở thành tổ chức văn học có tiếng tăm và uy tín nhất lúc bấy giờ. Ông cũng là cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn và tờ báo Ngày nay với tư tưởng khá tiến bộ.

Khái Hưng có đóng góp về nghệ thuật viết tiểu thuyết. So với những tiểu thuyết được viết ra trong khoảng năm sáu năm về trước, nghệ thuật tiểu thuyết trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng đã có những bước tiến vượt bậc. Tác phẩm có kết cấu chặt, tổ chức cốt truyện có nhiều tình huống éo le, giàu kịch tính, được sắp xếp chặt chẽ, hợp lí. Các chương xen kẽ nhau theo trình tự không gian và thời gian hợp lí không liên kết theo kiểu chương hồi. Đọc Nửa chừng xuân, cảm tưởng rõ rệt nhất là tác phẩm này khắc phục được những hạn chế của lối viết truyện theo kiểu cổ còn ảnh hưởng nặng trong tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Thuật, Bửu Đỉnh, Hồ Biểu Chánh và phần nào ở Hoàng Ngọc Phách. Nửa chừng xuân là tiểu thuyết của thời kì hiện đại, nằm trong quỹ đạo văn chương hiện đại. Tuy đã được viết ra gần nửa thế kỉ, nhưng ngày nay đọc lại Nửa chừng xuân, chúng ra không cảm thấy khoảng cách xa về văn chương mặc dù không tránh khỏi nhiều lúc văn chương còn bộc lộ sự điển tô chăm chút theo kiểu làm văn và mang ít nhiều tính chất khuôn sáo đài các. Trong nhiều trường hợp khác, Khái Hưng miêu tả cảnh vật gần gũi, tạo được không khí chân thực của đời sống với ngôn ngữ giản dị, cảm động.

Về những cách tân nghệ thuật tiểu thuyết và ngôn ngữ văn học trong những tác phẩm của Khái Hưng thì đương thời, các nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại, Trương Chính, Trương Tửu, Vũ Ngọc Phan... đã đánh giá cao nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, nghệ thuật kết cấu và sử dụng ngôn ngữ của ông. Trần Thanh Mại nhận xét: "Khái Hưng là một nhà văn sĩ mở đầu cho một kỷ nguyên văn nghệ mới (...), biểu thị theo phương pháp quan sát và suy diễn của khoa học, nhờ một lối văn giản dị, trong sáng, một ngọn bút thanh đạm, dịu dàng”. Vũ Ngọc Phan tôn vinh Khái Hưng là nhà tiểu thuyết có biệt tài... Các nhà nghiên cứu ở miền Nam trước năm 1975, cũng đề cao nghệ thuật tiểu thuyết của Khái Hưng. Chẳng hạn, nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ đánh giá: “Về kỹ thuật, những tiểu thuyết trên của Khái Hưng đều được bố cục giản dị nhưng khéo léo. Tình tiết thưa ít (… ) động tác ngắn gọn, câu truyện không có những ngoắt ngoéo ly kỳ, những giải kết đột ngột, tính chất gay cấn của những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chẳng hạn (...). Từ Trống mái trở đi, tác giả hầu như khinh hẳn câu truyện, hướng ngòi bút vào phân tích tâm lý, tô vẽ những màu nhân vật đặc thù....” Thế Phong khen ngợi: “Từ tiểu thuyết lý tưởng như Hồn bướm mơ tiên hay Nửa chừng xuân bắt nguồn rất nhanh đến loại truyện phân tách tâm lý, mổ xẻ tinh vi hình tượng con người, sống trong cùng một thời gian, không gian với tác giả, khiến người đi sau xếp ông vào loại bất tử”. Nguyễn Văn Xung khẳng định: "Người ta có thể nói Khái Hưng là ngòi bút chắc chắn, điêu luyện nhất trong các nhà văn hiện đại. Cách viết trong sáng đến bình dị của Khái Hưng là đức tính cao nhất mà kĩ thuật hành văn có thể đạt đến...". Giáo sư Hà Minh Đức đánh giá: “Cùng với Nhất Linh, Khái Hưng đã góp phần mở đường cho khuynh hướng hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam (...). Khái Hưng có sở trường miêu tả những khung cảnh sinh hoạt gia đình với nhiều màu sắc chân thực gợi cảm. Ông xây dựng được nhiều tính cách nhân vật nữ có bản sắc, giàu nữ tính và có chiều sâu nội tâm. Nhân vật nữ của Khái Hưng mang ít nhiều màu sắc truyền thống. Những cốt truyện không vay mượn, xa lạ, phong cảnh thiên nhiên mang nhiều cảnh sắc của thiên nhiên và làng quê Việt Nam và những nét tâm lý quen thuộc gần gũi với truyền thống...” Khái Hưng đã tỏ ra sắc sảo trong tâm lí đối thoại của nhân vật. Trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân, khi bà Án quyết định sẽ lấy vợ cho Lộc và cho phép Mai được làm lẽ, Mai vừa căm giận, vừa đau khổ. Mai ở vào hoàn cảnh thật khó khăn, vửa phải giữ thể diện và bản lĩnh cứng rắn, lại vừa đau khổ van nài sự thương cảm của người có quyền thế. Khái Hưng đã miêu tả Mai xúc động và ngập ngừng nói : “Bẩm bà lớn… người vợ chưa cưới của anh Lộc con, nếu chẳng lấy anh con thì cũng lấy được người khác. Còn con thì trinh tiết… tính mệnh cả một đời con, con đã gửi vào anh con, con không thể lấy ai được nữa. Không phải con sợ mất, sợ thiệt một sự gì cho con, nhưng xa anh Lộc thì con không thể sống được nữa. Mà con chắc anh con cũng yêu con như con yêu anh con. Và lại bà lớn đã biết đâu người vợ chưa cưới của anh con yêu anh con, nhất là anh con thì thực không yêu người ta một chút nào vì nếu anh con yêu người ta thì đã chả yêu con. Vậy nếu bà lớn cho phép chúng con lấy nhau, bà lớn sẽ gây hạnh phúc cho cả ba người, cho anh con, cho con và cho cả con quan tuần nào đó. Trái lại nếu bà lớn không cho phép con thì không biết ba cuộc đời ấy sau này sẽ ra sao. Nhất là con, không biết sẽ sa vào cái hang vực sâu thẳm nào ? Vì con xin thú thực với bà lớn, con không thể nào yêu chung người khác được. Thà con chết còn hơn đi lấy lẽ. Lương tâm con không cho con làm những điều vô nhân đạo như thế”. Những lời nói chân thành của Mai không làm lay chuyển được lòng dạ sắt đá của bà Án. Đoạn văn trên cũng góp phần nói lên sự gần gũi của ngôn ngữ các nhân vật với ngôn ngữ cuộc sống hôm nay. Trong những cuốn tiểu thuyết sau này của Khái Hưng, tác giả cũng có đóng góp cho sự phát triển của nghệ thuật tiểu thuyết.

Khái Hưng đã góp phần làm phong phú các tiểu loại tiểu thuyết. Theo Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học, tiểu thuyết của Khái Hưng có các ý hướng: ý hướng thơ, ý hướng tranh đấu, ý hướng lịch sử, ý hướng tâm lý. Có người lại cho rằng tác giả viết các loại tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết tâm lý. Có thể nói, với Khái Hưng tiểu thuyết đã có nhiều hình thức: tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tâm lý...Về ngôn ngữ, tiểu thuyết của Khái Hưng đã góp phần quan trọng vào việc mở đường và khẳng định một lối văn mới có tính cách An Nam: giản dị, dễ hiểu, trong sáng, mềm mại, hiện đại. Khái Hưng cũng như các nhà văn trong Tự lực văn đoàn là những trí thức Tây học, am hiểu văn chương Pháp, có đầu óc khoa học nên cách viết văn của họ thay đổi hẳn. Ông đã có quan niệm mới về cú pháp. Trong cái chủ trương chung của văn đoàn dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho, có sức phổ cập trong tầng lớp trung lưu đông đảo, nhà văn thường viết những câu đơn, những câu bao gồm một mệnh đề chính và vài ba mệnh đề phụ, theo kiến trúc câu văn Pháp, nhưng vẫn giữ được lối suy nghĩ và cách diễn đạt Việt Nam. Từ loại câu cơ sở này, tác giả tạo thành những câu mở rộng, câu cảm thán, nghi vấn, phủ định.... Ngay từ Hồn bướm mơ tiênNửa chừng xuân, thì so với những tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Thuật, Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, ngôn ngữ trong các tác phẩm này đã có những tiến bộ vượt bực. Văn của tác giả đã sáng sủa, thanh thoát, nhẹ nhàng, ngôn từ chọn lọc, đối thoại linh động. Năng lực diễn tả của nó hơn hẳn những câu văn biền ngẫu, nhất là những đoạn tả cảnh. Như: “Gió thổi dữ. Các tà áo Lan bay phất phới, mà trái tim kia như chịu sức mạnh của gió, cũng phập phồng trong ngực, như là sắp nhấp nhô tựa sóng. " Hoặc: "Mặt trời đã xế về tây Luồng gió lạnh thổi, Lan rùng mình ngơ ngác nhìn quanh như sợ có người đứng nghe trộm được những ý nghĩ bất chính của mình. Lan cố không tư tướng nữa muốn theo gương sư cụ ngồi tĩnh tọa để tìm chân lý” (trích Hồn bướm mơ tiên). Những câu văn không còn lổn nhổn sáo ngữ, chữ nho, điển tích, điển cố, từ cổ, đăng đối nặng nề, lê thê, những câu văn khúc triết, đơn giản, dễ hiểu như thế vừa có khả năng diễn tả cụ thể trạng thái khác nhau của sự vật, vừa đi sâu được vào biến thái tinh vi của tâm hồn con người, gây được ấn tượng mạnh mẽ, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Điều đó chứng tỏ tiếng Việt với ngòi bút của Khái Hưng đã rất thuần thục, nhuần nhuyễn. Nó đã thực sự trong sáng, hiện đại. Nếu đặt văn của Khái Hưng bên cạnh một số tác giả liền ngay trước đó, thì ta dễ dàng thấy đây là một bước nhảy vọt. Một cuộc "cách mạng” thật sự. Chẳng hạn trong Thề non nước văn của Tản Đà còn rất cổ, đầy sáo ngữ: "Nhạn én đổi thay, tháng ngày thấm thoát, kể từ độ đề tranh sơn thuỷ, tới nay gần đã ba đông”,” lận đận chân mây, bể trần chìm nổi thân thế dẫu mỗi người một khác, mà nghĩ cũng như nhau" (4, 91). Văn của Hoàng Ngọc Phách trong Tố Tâm cũng còn những câu biền ngẫu, những sáo ngữ: “Rồi đây Cảnh hồng bay bổng, tin nhạn vắng tanh là cuộc đời bắt buộc, chứ em còn sống ở cõi trần này còn tưởng đến anh xin anh đừng nghĩ gì mà khổ tâm em lắm đó... Giấy ngắn tình dài khôn tả xiết, gửi mấy lời kính lại tình quân, xin tình quân soi xét cho người bạc mệnh" (4, 111). Chính vì thế mà Nhất Linh, vị chủ tướng của Tự lực văn đoàn đã nhiệt liệt đón nhận lối viết của Khái Hưng vì nó "có hai đặc sắc khác những lối viết truyện xưa nay, tác giả không tả cảnh rườm rà, không bàn luận lôi thôi... vì hai lẽ đó nên truyện Hồn bướm mơ tiên có vẻ hoạt động… xem ham mê từ đầu chí cuối”. Những đổi mới của Khái Hưng trong nghệ thuật ngôn ngữ không chỉ ở từng chữ, từng câu được lựa chọn và đặt đúng chỗ, phát huy đúng tính chất, hiệu quả diễn đạt của nó mà còn thể hiện ở những đổi mới của kiểu trần thuật của diễn ngôn tự sự, của lời kể.

Như vậy, Khái Hưng đã có những cách tân đáng kể trong nghệ thuật tiểu thuyết và ngôn ngữ văn chương. Ông đã xây dựng những cốt truyện theo lối mới: đa tuyến, mở, không có hậu và cốt truyện chú trọng tâm lý, cốt truyện tâm lý nới lỏng, cốt truyện đung hợp âu á. Nhà văn đã đặt trọng tâm sáng tạo vào việc xây dụng nhân vật đi sâu miêu tả đời sống tâm lý với những khám phá, phát hiện sâu sắc, những phương thức biểu hiện mới mẻ, tinh tế. Ông cũng có đóng góp không nhỏ trong xây dụng một lối văn An Nam, giản dị, dễ hiểu, trong sáng, mềm mại, giàu màu sắc, âm hưởng... và diễn ngôn tự sự mới, không đơn điệu, giàu sức diễn tả cuộc sống và tâm hồn con người.

Khái Hưng cũng khá thành công trong xây dựng nhân vật. Tiểu thuyết của ông để lại nhiều hình tượng hấp dẫn và có sức sống. Cách xây dựng nhân vật của ông có những sáng tạo, mới mẻ, độc đáo, thể hiện một lối tư duy mới, khác biệt rõ rệt với nhân vật trong văn học thời trung đại. Nó không phải được miêu tả bằng những nét ước lệ, tượng trưng, bằng điển cố, điển tích, bằng khuôn mẫu, không chỉ chấm phá để cốt làm nổi thần thái nhân vật. Nó không độc phân thành tuyến rõ rệt: phản diện, chính diện. Những nhân vật chính diện thì tài sắc. Gái thì “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Trai thì phong lưu anh tuấn hơn người, cầm kỳ thi họa, học vấn trác tuyệt, nếu phải ra trận thì bách chiến, bách thắng, sức dư muôn ngươi... là những trung thần thì ra tay lương đống, hay là những vị vua lúc đầu có thể sai sót nhưng kết thúc bao giờ cũng anh minh, sáng suốt. Hoặc là những nhân vật phản diện: gian ác, háo sắc, nham hiểm hại người, thông đồng với giặc, mưu lợi cầu vinh... Nhân vật trong tiểu thuyết của Khái Hưng đã được xây dựng theo một kiểu tư duy nghệ thuật mới, thể hiện một cách cảm nhận mới và một lối diễn đạt mới. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định vai trò mở đường và cách tân trong nghệ thuật tiểu thuyết của Khái Hưng và những người Tự lực. Sáng tác của Kh
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top