• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Trang Dimple

New member
Xu
38
Phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô Viết – Nghệ Tĩnh

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và thiên tai đã tác động nặng nề đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động hết sức điêu đứng.Thêm vào đó, các vụ bắt bớ, đàn áp của chính quyền thực dân diễn ra tàn bạo trên khắp cả nước, đặc biệt sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng Bầu không khí chính trị Việt Nam càng trở nên ngột ngạt.

Vào thời điểm đó ngọn cờ giải phóng dân tộc được giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao. Sau khi hợp nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành một chính đảng thống nhất về tổ chức và đúng đắn về cương lĩnh chính trị, đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, phát động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, Hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Tiếp đến là các cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, của 4.000 công nhân nhà máy dệt Nam Định (tháng 4 - 1930), của nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương. Cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Những cuộc đấu tranh đó là khúc dạo đầu của cao trào cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5, lần đầu tiên một phong trào đấu tranh có quy mô toàn quốc được phát động.

Ở Nam Kỳ, công nhân nhà máy điện Chợ Quán (Sài Gòn), nhà máy xe lửa Dĩ An đấu tranh. Hòa nhịp với các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân các huyện Đức Hòa (Chợ Lớn), Cao Lãnh (Sa Đéc), Chợ Mới (Long Xuyên) và nông dân các tỉnh Gia Định, Vinh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một biểu tình đòi giảm thuế, bỏ sưu.

Ở Trung Kỳ, nông dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam đến các tỉnh cực nam như Khánh Hòa, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh.

Ở Bắc Kỳ, khu mỏ Hồng Gai trở thành nơi đấu tranh quyết liệt giữa công nhân và giới chủ. Cuộc đấu tranh của nông dân đã diễn ra ở Thái Bình, Hà Nam, Kiến An.

Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương và phát động đã kéo dài trên một năm, diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả ba miền đất nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh. Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1 - 5 với sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và nông dân các huyện lan cận đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Chính quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Binh lính được điều đàn và xả súng bắn vào đoàn biểu tình, giết chết 7 người, làm bị thương 18 người và bắt đi 98 người. Như lửa đổ thêm dầu, các cuộc đấu tranh của quần chúng lao động càng trở nên quyết liệt hơn. Ngày 1 - 5 - 1930 là một mốc son trong cao trào cách mạng 1930- 1 931 . Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sức mạnh to lớn của khối liên minh công - nông đã được biểu hiện rõ ràng trong những cuộc chiến đất vang dội đó.

Sau ngày 1 - 5 cho đến tháng 8 - 1930, công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy tiếp tục đấu tranh hết sức sôi nổi. Ngày 27 - 6, được sự phốt hợp tổ chức của các Công hội đỏ, một cuộc biểu tình lớn được tổ chức với sự tham gia của hầu hết công nhân các nhà máy thuộc khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy. Ngày 2 – 8, cuộc tuần hành thị uy của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, nhà máy diêm đã kéo theo cuộc đình công hưởng ứng của công nhan nhiều nhà máy khác.

Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ -Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến các huyện đường Can Lộc ngày 4-8, Nam Đàn ngày 6-8, Thanh Chương ngày 12-8, Nghi Lộc ngày 29-8, Nam Đàn (30-8).

Đến tháng 9 phong trào đấu tranh lên tới đỉnh điểm. Ngày 1- 9 -1930, 20.000 nông dân Thanh Chương biểu tình đòi giảm thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng, những đoàn ngư¬ời biểu tình kết thành đội ngũ tiến vào huyện đường, phá nhà giam, giải phóng tù nhân, đốt dinh tri huyện cùng với giấy tờ, sổ sách trong đó. Bọn hào lý, địa chủ bỏ chạy. Đại bộ phận các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương, chính quyền tay sai tan rã. Nhân dân xã Võ Liệt (Thanh Chương) tự đứng ra tổ chức, điều hành công việc trong thôn xã.

Thắng lợi của phong trào nông dân Thanh Chương đã góp phần khích lệ các, cuộc đấu tranh ở các nới khác. Từ ngày 5-9 đến ngày 11-9 nông dân các huyện Anh Sơn, Diễn Châu, Can Lộc, Nam Đàn, Nghi Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh... nổi dậy với một khí thế mới , một quyết tam mới. Những cuộc xung đột đổ máu giữa những người biểu tình với binh lính, cảnh sát diễn ra thường xuyên hơn.

Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và Đông Dương, vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản, Luận cương (chính trị đã xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Luận cương xác định cách mạng Đông Dương là cuộc cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương thời kỳ đầu là đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến mang lại ruộng cho dân cày. Luận cương đã xác định : "Giai cấp vô sản và nông dân là hai lực lượng chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được và cuối cùng, Luận cương đã xác định phương pháp giành chính quyền là khởi nghĩa vũ trang.

Luận cương chính trị tháng 10- 1930 đã xác định được một số vấn đề có tầm chiến lược của cách mạng Đông Dương . Nó góp một phần quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, trang bị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương vũ khí tư tưởng sắc bén để đấu tranh thắng lợi với các loại tư tưởng phi vô sản khác.

Từ năm 1931 , thực dân Pháp và tay sai đã thực hiện một cuộc khủng bố tàn bạo ở Nghệ- Tĩnh. Đồn bốt được dựng lên, những đơn vị lính lê dương, lính khố đỏ được điều tới lệnh thiết quân luật được ban bố, cùng lúc, chúng sử dụng những thủ đoạn thâm độc như tổ chức "rước cờ vàng" "nhận thẻ quy thuận", tung các loại sách báo vu cáo chủ nghĩa cộng sản, ráo riết truy lùng, bắt bớ các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước.
Mặc dù quần chúng cách mạng đã tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn đàn áp, lừa bịp của địch, nhưng do lực lượng không cân sức, phong trào Nghệ - Tĩnh dần dần đi xuống.

Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ- Tĩnh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng có ý nghĩa hết sức to lớn. Cao trào cách mạng cùng sự ra đời của chính quyền Xô Viết là kết tinh sức mạnh to lớn của khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạn, "đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi sau này"

Và cũng qua "cuộc chiến đấu xung thiên" của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam mà những người cộng sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới biết tới dân tộc ta. Quốc tế Cộng sản đã khẳng định : "Phong trào cách mạng bồng bột trong cả xứ Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sàn trong các xứ thuộc địa, nhất là các nước phương Đông. Trong phiên họp ngày 11-4-1931. Hội nghị toàn thể lần thứ 11 Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản.

Đấu tranh phục hồi lực lượng cách mạng sau cuộc khủng bố trắng của Pháp (1932-1935).

1. Chính sách mới của Pháp và phong trào cách mạng Việt Nam

Hy vọng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam, thực dân Pháp vẫn tăng cường chính sách khủng bố. Hàng vạn chiến sĩ và đồng bào yêu nước bị bắt. Các nhà tù chật ních chính trị phạm. Hàng trăm ng¬ời bị kết án tử hình. Hai năm 1930-1931, ở Bắc Kỳ, thực dân Pháp mở 21 phiên toà đại hình, xử 1.094 vụ, trong đó có 164 án tử hình, 114 án khổ sai chung thân, 420 án đầy biệt xứ.

Mặt khác, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn lừa bịp, mị dân nhằm lừa gạt quần chúng. Tháng 10-1930 Pôn Raynô, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp sang Đông Dương để điều tra tình hình và định ra chính sách đối phó cho thích hợp. Chính quyền thực dân thi hành một số biện pháp cải lương, tổ chức lại tr¬ường Cao đẳng Đông Dương, trường Luật, đưa một số địa chủ, tư sản, trí thức cao cấp vào một số chức vụ "quan trọng", cho người "bản xứ" được nhập quốc tịch Pháp một cách rộng rãi hơn... Nhân cơ hội này những lực lượng thân Pháp bắt đầu trỗi dậy.

Thực dân Pháp cũng chú ý sử dụng các tổ chức, hình thức văn hóa tư tưởng vào việc chống lại ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản. Chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, chống Liên Xô . . . , lợi dụng một số tổ chức tôn giáo để chống phá cách mạng. Những sòng bạc, tiệm nhảy, tiệm hút, nhà chứa... được mở để lôi kéo thanh niên vào cuộc sống đồi truỵ.

Giữa lúc cơ sở cách mạng và quần chúng bị khủng bố trắng, nhiều cán bộ lãnh đạo bị giặc bắt, thì các chiến sĩ cộng sản hoạt động ở Trung Quốc và Thái Lan lần lượt tìm cách trở về nước hoạt động. Tại những tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc như Cao Bằng, Lạng Sơn, hay biên giới Lào - Thái như Thà Khét, Xavanakhẹt, các cơ sở cách mạng dần dần được phục hồi.

Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong đã cùng một số đảng viên cộng sản hoạt động ở trong nước và nước ngoài tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung tướng Đảng. Một Chương trình hành động được đề ra vào tháng 6 - 1932, nội dung chủ yếu là đòi các quyền dân chủ cho nhân dân lao động, đòi trả lại tự do cho tất cả tù chính trị, bỏ các thứ thuế bất công, vô lý, xoá độc quyền muối, rượu... 'Chương trình hành động còn nêu lên sự cấp thiết phải củng cố, phát triển các tổ chức của Đảng cũng như các tổ chức quần chúng, đề ra những yêu cầu cụ thể cho từng giai cấp, tầng lớp nhân dân, như công nhân, nông dân, binh lính, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo thành thị, thanh niên, phụ nữ... Nhiều đoàn thể sơ khai, như hội cày, hội gặt, đá bóng, đọc sách báo, hội hiếu hỷ... đã được lập ra. Phong trào đấu tranh của quần chúng dần dần nhen nhóm trở lại.
Tiêu biểu cho phong trào công - nông ở giai đoạn phục hồi 1932-1935 phải kể đến các cuộc bãi công liên tiếp của công nhân làm đường xe lửa Quảng Nam, Quảng Ngãi (từ đầu năm 1932 đến năm 1933), công nhân Nhà máy in ácđanh, Textôlanh, Opêniông Ở Sài Gòn, công nhân xe kéo Ở Gia Định, công nhân đồn điền Phú Quốc, Dầu Tiếng... Phong trào nông dân cũng nổi dậy ở nhiều nơi, như¬ Gia Định. Chợ Lớn, Chợ Mới (Long Xuyên), Càng Long (Trà Vinh):.. chống các thứ thuế.

Bên cạnh các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân, còn có các cuộc bãi thị ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dư¬ơng, Sài Gòn... bãi khoá của học sinh Sài Gòn, biểu tình của binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở Vũng Tàu và sân bay Bạch Mai (Hà Nội).
Cuối năm 1933, các tổ chức của Đảng dần dần được xây dựng lại và củng cố. Đầu năm 1934, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban lãnh dạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Trên thực tế, Ban lãnh đạo hải ngoại đã làm chức năng của Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.

2. Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935)

Từ ngày 27 đến 31-3-1935, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các đảng bộ ở trong nước và các tổ chức của Đảng đang hoạt động ở nước ngoài.

Đại hội nhận định: mặc dầu các tổ chức của Đảng đã được khôi phục nhưng lực lượng của Đảng vẫn chưa được phát triển; ở các khu công nghiệp, công nhân gia nhập Đảng còn ít, hệ thống tổ chức Đảng ch¬a thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ Đảng chưa đ¬ược chặt chẽ.
Đại hội còn nêu rõ ba nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi và chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ Đảng, thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính và các nghị quyết về công tác liên minh phản đế, công tác trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.

Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 người trong đó có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Hoàng Đình Giong, v.v.. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử Nguyễn Ái Quốc là đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Quốc tế Cộng sản.

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đã khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước. Đó là sự chuẩn bị cần thiết để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.

Tuy nhiên, lúc đó tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi đòi hỏi Đảng phải kịp thời đề ra phương hướng hoạt động thích hợp. Nhưng Đại hội lại chưa tổng kết được kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng trong năm năm qua, kể từ khi Đảng thành lập, nhất là trong thời kỳ đấu tranh khôi phục và phát triển phong trào cách mạng.

Thiếu sót của Đại hội là thiếu nhạy bén với tình hình mới, không thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa phát xít trên thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống phát xít, chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Thiếu sót này đã được bổ khuyết khi có nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936.
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Phong trào đấu tranh công khai hợp pháp đòi tự do dân chủ (1936-1939).

Cuộc khủng hoảng của hệ thống tư bản chủ nghĩa với những mâu thuẫn gay gắt và toàn diện đã dẫn tới sự xuất hiện chủ nghĩa phát xít - một hình thức thống trị cực kỳ tàn bạo mà bọn tư bản độc quyền sử dụng hòng cứu vãn chế độ tư bản. Với sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít mà trục chính của nó là Rôm- Béclin- Tôkiô, nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới đang tới gần. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII tại Matxcơva với sự có mặt của 65 đoàn đại biểu. Đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu, lần đầu tiên tham dự Đại hội.

Đại hội VII Quốc tế Cộng sản quyết định những vấn đề quan trọng sau đây:
Xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít.
- Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình, giành tự do, dân chủ.

Xây dựng mặt trận thống nhất rộng rãi.

Dưới ánh sáng của những nghị quyết Đại hội, các Đảng cộng sản Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc làm nòng cốt trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm đoàn kết mọi lực lượng chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, đòi dân chủ,tự do. Tháng 5-1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, tháng 6-1936 lập chính phủ mới. Trước sức ép của Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng Pháp, chính phủ đã phải thi hành một số điểm trong chương trình tranh cử của Mặt trận nhân dân Pháp. Với các nước thuộc địa, chính phủ Pháp đã có 3 quyết định rất quan trọng: trả lại tự do cho tất cả tù chính trị, thành lập ủy ban điều tra tình hình các thuộc địa, và thi hành một số cải cách xã hội.
Ở trong nước, tuy cuộc khủng hoảng kinh tế có dịu đi nhưng kinh tế Đông Dương vẫn trong tình trạng lay lắt. Nền sản xuất phục hồi một cách chậm chạp ở một số ngành như khai thác than và quặng. Sản xuất nông nghiệp không nhích được bao nhiêu. Ngân hàng Đông Dương vẫn tiếp tục đóng vai trò chúa tể, trực tiếp hoặc gián tiếp điều khiển các công ty tư bản lớn thuộc những lĩnh vực kinh tế chủ đạo.

Để bù đắp những thiệt hại do khủng hoảng kinh tế gây nên, chính quyền thuộc địa mượn tiếng cải cách thuế khóa đã tăng thuế thân Ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ,đặt thêm thuế lợi tức ở Nam Kỳ và thuế cư trú ở các thành phố. Đời sống của các tầng lớp nhân dân vẫn rất khó khăn. Lương công nhân thời kỳ này thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước khủng hoảng. Ở nông thôn cuộc sống vẫn tối tăm. Số vô sản ở nông thôn ngày càng đông và hầu như không có lối thoát. Ở thành thị, dân cư đông đúc lên và sống nghẹt thở bởi thuế khóa nặng nề.

Nhìn chung, do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế và sự đục khoét tàn bạo của chính quyền thực dân, các tầng lớp nhân dân, kể cả tư sản dân tộc, đều cảm thấy ngột ngạt và mong có sự thay đổi trong đời sống kinh tế- xã hội.

Trước tình hình thế giới và đất nước có nhiều biến đổi, tháng 7 - 1936, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng do Lê Hồng Phong, ủy viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chủ trì, đã họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh mới đưa phong trào cách mạng nước ta tiếp tục phát triển. Hội nghị đã xác định mục tiêu chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân nhằm thực hiện được mục tiêu đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3-1938 được đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Hội nghị Trung ương tháng 7 - 1936 là sự vận dụng sáng tạo Nghị quyết của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh phong phú, lan ra thành một phong trào cách mạng rầm rộ, sâu rộng trên quy mô toàn quốc.

Mở đầu là phong trào Đại hội Đông Dương. Biết được Quốc hội Pháp sẽ cử các phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương phát động một phong trào rộng lớn trong quần chúng nhân dân đấu tranh công khai, hợp pháp nêu lên nguyện vọng về tự do, dân chủ và cải thiện đời sống. Phong trào Đông Dương Đại hội, từ một sáng kiến ở Sài Gòn đã được nhân rộng khắp toàn quốc. Ở Nam Kỳ đến cuối tháng 9-1936 đã thành lập hơn 600 uỷ ban hành động của công nhân, nông dân, viên chức. Nhiều ủy ban hành động có trụ sở, tổ chức sinh hoạt chính trị công khai, vạch trần hiện trạng bất công, cực khổ dưới chế độ thuộc địa tàn bạo, thảo luận các biện pháp đấu tranh thích hợp nhằm đạt được các yêu sách về tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình.

Tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã buộc nhà chính quyền Đông Dương ra Nghị định ngày 11-10-1936, quy định một số quyền lợi của công nhân như thời gian làm việc không được quá 8 giờ/ngày kể từ ngày 1-1-1938 ; công nhân được nghỉ chủ nhật và nghỉ phép năm có lương; cấm bắt phụ nữ và lực cai làm việc ban đêm...

Nhân dân lao động dựa vào những cơ sở pháp lý đó đấu tranh với giới chủ tư bản và chính quyền thuộc địa nhằm từng bước cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt của mình. Những tháng cuối năm 1936 đã có 361 cuộc bãi công, trong đó có một số cuộc bãi công có quy mô lớn và có tiếng vang trên cả nước như cuộc bãi công của hàng ngàn công nhân mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), đặc biệt là cuộc bãi công của 30.000 công nhân mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả tháng 11 - 1936.
Kế quả của sự phối hợp đấu tranh giữa Mặt trận nhân dân Pháp và nhân dân là đã buộc chính quyền thuộc địa phải trả lại tự do cho 1.532 tù chính trị, phần lớn là các chiến sĩ cộng sản. Ngay sau khi ra khỏi nhà tù thực dân, họ đã lao ngay vào cuộc chiến đấu mới, tổ chức quần chúng. xây dựng lại cơ sở, đưa phong trào cách mạng tiến lên.

Những tháng đầu năm 1937 đánh dấu bước phát triển mới của phong trào. Từ Nam đến Bắc nhân dân lao động mít tinh biểu dương lực lượng nhân dịp Giúyxtanh Gô đa (Justin Godart), phái viên của Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương. Ngày 1-1-1937, Ở Nam Kỳ, 20.000 người đủ các giới, nhất là giới lao động Sài Gòn - Chợ Lớn và nông dân phụ cận đón Gô đa bằng những khẩu hiệu: Hoan nghênh Mặt trận nhân dân Pháp, tự do dân chủ, tự do lập hội, thi hành luật lao động, bỏ thuế thân, toàn xá chính trị phạm...

Để phong trào tiến lên mạnh mẽ hơn nữa, các cuộc Hội nghị Trung ương Đảng tháng 3 và tháng 9-1937 tập trung giải quyết những vấn đề về tổ chức Đảng chủ trương sử dụng nhiều hình thức tổ chức mới một cách khôn khéo, bình hoạt, tận dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tập hợp lực lượng rộng rãi hơn, mở rộng phong trào hơn nữa. Nhiều quyết định về tổ chức đã được thực hiện: lập Đoàn thanh niên phản đế, Hội cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội. Ở nông thôn, các hình thức tổ chức như Hội cấy, Hội lợp nhà, Hội chèo được phát triển rộng khắp, tập hợp hàng triệu quần chúng vì những mục tiêu cụ thể, thiết thực.

Trong hai năm 1937-1938, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã công bố chương trình hành động tối thiểu và danh sách ứng cử viên của mình vào các Viện dân biểu Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Hội đồng thành phố Hà Nội, Đại hội đồng kinh tế tài chính Đông Dương. Với chính sách liên hiệp rộng rãi, chương trình hành động phản ánh nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử Viện Dân biểu Bắc Kỳ và Viện Dân biểu Trung Kỳ năm 1938.

Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đạt tới đỉnh điểm với lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1938. Lần đầu tiên Ở Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động được tổ chức kỷ niệm công khai, rầm rộ. Tại Hà Nội, lễ kỷ niệm ngày 1-5 được chuẩn bị chu đáo và tổ chức tại khu Đấu Xảo với sự tham gia của 25.000 người đại diện cho các đoàn thể, các giới,các nhóm chính trị.

Những năm 1936-1939 là thời kỳ có nhiều nét mới trong đời sống văn hóa tư tưởng của đất nước. Ở thời kỳ này, Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệt để sử dụng báo chí công khai làm công cụ tuyên truyền hết sức sắc bén. Từ năm 1937, hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận Dân chủ và các đoàn thể nối tiếp nhau ra đời, tiêu biểu là các tờ báo Notre voix (Tiếng nói chúng ta). Le Travail (Lao dộng), Tin tức (ở Bắc Kỳ), Nhành lúa, Le Peuple (Nhân dân), Dân chúng, Lao động, Mới (ở Nam kỳ). Cùng với sự nở rộ của báo chí cách mạng công khai, các nhà xuất bản của Đảng ta và Đảng Cộng sản Pháp đã in và phát hành nhiều tập sách về chủ nghĩa Mác, về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những tập sách giới thiệu về Liên Xô, về cách mạng Trung Quốc, Mặt trận nhân dân Pháp, Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha. Trên văn đàn, nếu như thời kỳ trước năm 1935, văn học lãng mạn chiếm ưu thế thì thời kỳ này nhường chỗ cho văn học hiện thực phê phán. Các tác phẩm Tắt đèn,Việc làng của Ngô Tất Tố, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Lầm than của Lan Khai... tuy còn những hạn chế nhất định, nhưng đã phản ánh sinh động một hiện thực đau khổ, lầm than của xã hội Việt Nam dưới ách thực dân-phong kiến.

Kinh nghiệm quý báu nhất của thời kỳ 1936-1939 một thời kỳ có một không hai ở thuộc địa là biết triệt để lợi dụng mọi khả năng hợp pháp để tập hợp lực lượng, tổ chức đội quân chính trị hùng hậu trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương, kết hợp khéo léo, chặt chẽ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp, với hoạt động bí mật và không hợp pháp để từng bước đưa phong trào tiến lên. Vì vậy, nếu như cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên thì cao trào cách mạng 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc (1939-1941).

Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, quân đội phát xít Đức tiến công nước Pháp, Chính phủ phản động Pháp đầu hàng, làm tay sai cho Đức (tháng 6-1940). Ở Viễn Đông, quân đội phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt-Trung.

Thực dân Pháp ở Đông Dương lo sợ cả ngọn lửa cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dương, lẫn sự đe doạ nhảy vào Đông Dương của phát xít Nhật.

Để đối phó, một mặt thực dân Pháp thực hiện chính sách thời chiến, ra sức phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Hàng vạn vụ khám xét, bắt bớ diễn ra khắp nơi, lệnh "tổng động viên" được ban bố cùng với chính sách "kinh tế chỉ huy" được thi hành, nhằm tăng cường vơ vét sức người và sức của ở thuộc địa để cung ứng cho cuộc chiến tranh đế quốc. Chính sách phản động trên của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào cảnh sống ngột ngạt bần cùng. Mặt khác, thực dân Pháp thi hành chính sách thoả hiệp, tiếp tay cho Nhật mở rộng chiến tranh đế quốc xâm lược.

Ngày 22-9-1940, Nhật cho quân tiến công Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ vào Đồ Sơn. Pháp nhanh chóng đầu hàng Nhật ở Lạng Sơn. Sau đó Nhật lấn dần Pháp, buộc Pháp ký hết hiệp định này đến hiệp định khác, nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng.
Cùng với việc buộc Pháp nhượng bộ, Nhật ra sức lôi kéo một số phần tử cơ hội trong bộ phận địa chủ và tư sản phản động người Việt Nam làm tay sai phục vụ cho chúng. Bọn này núp dưới hình thức đảng phái chính trị (Đại Việt, Phục Quốc...), hình thức tôn giáo để hoạt động tuyên truyền về văn minh và sức mạnh của Nhật.

Như vậy, "Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lược Đông Dương... thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ra rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích pháp và Nhật"
Quân đội phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương trong khi thực dân Pháp vẫn còn nắm quyền cai trị, vừa là "người chủ thống trị" nhân dân ta, vừa làm tay sai cho Nhật. Dân ta "Một cổ đôi tròng, đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật"

Nhật bắt Pháp phải cung cấp nhiều nguyên liệu, lương thực, thực phẩm, tiền bạc, các vật dụng khác. Đáp lại yêu cầu của Nhật và cũng để đầy túi tham của mình, thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn bóc lột nhân dân ta. Pháp tăng thuế, và thủ đoạn buộc nông dân nhổ lúa để trồng đay, bông, thầu dầu, thuốc phiện nộp cho Nhật, cưỡng bức người sản xuất bán lương thực, thực phẩm với giá rẻ, một phần để tích trữ chuẩn bị chiến tranh, một phần để cung cấp cho Nhật.

Trong khi nhân dân ta, nhất là nông dân, thiếu ăn thì chúng dùng gạo để nấu rượu cồn thay xăng, đốt thóc thay than chạy máy điện ở miền Nam. Chúng còn cho mở các sòng bạc công khai ở Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Chợ Lớn... vừa để vơ vét tiền của, vừa để làm trụy lạc nhân dân ta.

Chính sách bóc lột kinh tế, áp bức chính trị của Pháp - Nhật đã gây hậu quả tai hại đến nền kinh tế đất nước, đến mọi mặt của đời sống nhân dân, trực tiếp làm hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc chết đói trong mấy tháng đầu năm 1945 và hàng triệu đồng bào khác trong cả nước sống dở, chết dở.
Công nhân và nông dân là hai giai cấp chịu hậu quả nặng nề nhất của chính sách phát xít. Giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề, đồng lương thực tế giảm sút, giờ làm việc tăng lên (từ 10 đến 12 giờ trong ngày). Họ sống điêu đứng vì hàng hoá trên thị trường khan hiếm, giá sinh hoạt đắt đỏ.

Ngày càng có nhiều công nhân bị sai thải, thất nghiệp. Giai cấp nông dân cũng bị bóc lột nặng nề. Họ là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất, chính sách tô cao thuế nặng.

Tầng lớp tiểu tư sản chịu tác động không nhỏ, bị ảnh hưởng trực tiếp, hoặc gián tiếp của những chính sách thực dân phản động. Nhiều học sinh, sinh viên thất học,nhiều trí thức,viên chức mất việc làm, đồng lương thực tế giảm sút. Nhiều tiểu thương sa vào cảnh hàng hoá ế ẩm, nhiều tiểu chủ sản xuất ngừng trệ.

Giai cấp tư sản dân tộc cũng bị chính sách "kinh tế chỉ huy" thời chiến của Pháp và chính sách tăng cường đầu tư của các công ty tư bản Nhật làm cho phá sản, bị thiệt hại do tư bản Pháp- Nhật cạnh tranh, do sức mua của nhân dân giảm sút.

Bộ phận địa chủ vừa và nhỏ bị thiệt hại do các chính sách cướp đất, tăng thuế, mua ngũ cốc với giá rẻ.

Như vậy, mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội Việt Nam,chỉ trừ bọn tay sai đế quốc, địa chủ lớn, tư sản mại bản,đều bị ảnh hưởng của chính sách thực dân phản động và của chiến tranh đế quốc, do đó ít nhiều đều có thái độ chống phát xít Pháp-Nhật, có cảm tình với cách mạng, tham gia vào cuộc đấu tranh chống chính quyền đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc.

Căn cứ vào tình hình trên, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (tháng 11-1939) của Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định nhiệm vụ trung tâm trước mắt của cách mạng là đánh đổ đế quốc phát xít Nhật-Pháp và bọn tay sai, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách nhất, các nhiệm vụ khác (kể cả nhiệm vụ giành ruộng đất) đều phải nhằm giải quyết nhiệm vụ đó: tạm gác khẩu hiệu "Cách mạng ruộng đất" và thay bằng các khẩu hiệu "Chống địa tô cao", "Chống cho vay nặng lãi", tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ tay sai chia cho dân cày nghèo.

Hội nghị lần thứ sáu của Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, và các cá nhân yêu nước tiến hành đấu tranh, thực hiện những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng.

Tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng đã làm bùng nổ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mở đầu bằng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ và binh biến Đô Lương.
- Khởi nghĩa Bắc Sơn (ngày 27-9-1940)

Đêm 22-9-1940, quân Nhật tiến đánh Lạng Sơn, quân Pháp thua, bỏ chạy qua châu Bắc Sơn. Thừa cơ, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy tước khí giới của quân Pháp để tự võ trang cho mình, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng (ngày 27-9-1940). Nhưng mấy hôm sau, Nhật thoả hiệp để Pháp quay trở lại đàn áp, tập trung dân, bắn giết nghĩa quân, đốt phá nhà cửa, cướp đoạt của cải.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân tiếp tục đấu tranh chống khủng bố, tổ chức những đoàn vũ trang trừng trị bọn tay sai của địch. Nhờ đó, cơ sở khởi nghĩa được duy trì, quân khởi nghĩa lập căn cứ quân sự. Một uỷ ban chỉ huy được thành lập để phụ trách công việc cách mạng. Tài sản của đế quốc và tay sai bị tịch thu chia cho dân nghèo và các gia đình bị hại. Quần chúng gia nhập đội quân cách mạng ngày càng đông. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập cùng với căn cứ Bắc Sơn hình thành, đó là đội vũ trang, căn cứ địa cách mạng đầu tiên đánh Pháp, đuổi Nhật trong thời kỳ Việt Minh sau này.

- Khởi nghĩa Nam Kỳ (ngày 23-11-1940)

Quân Xiêm (Thái Lan) với sự giúp đỡ của Nhật, lợi dụng cơ hội quân Pháp bại trận ở châu Âu và yếu thế ở Đông Dương, đã tiến hành khiêu khích, xung đột dọc biên giới với Lào và Campuchia. Để chống lại, thực dân Pháp bắt lính người Việt ra mặt trận chết thay cho chúng (tháng ll-1940). Nhân dân, nhất là binh lính người Việt rất bất bình và sôi sục khí thế đấu tranh. Tình thế cấp bách khiến cho đảng bộ Nam Kỳ phải quyết định khởi nghĩa, tuy chưa có sự chuẩn y của Trung ương, lệnh đình chỉ khởi nghĩa của Đảng ngoài Bắc vào chậm. Trước ngày khởi sự, một số cán bộ chỉ huy bị bắt, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, thực dân Pháp tìm cách đối phó. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo dự kiến vào đêm 22 rạng sáng ngày 23-11-1940 ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ triệt hạ nhiều đồn bốt giặc, phá tan nhiều chính quyền địch, thành lập chính quyền nhân dân và toà án cách mạng ở nhiều địa phương. Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện.

Thực dân Pháp đã dùng nhiều thủ đoạn dã man đàn áp cuộc khởi nghĩa. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân ở những vùng có phong trào nổi dậy, dùng dây thép xâu tay nhiều người vào nhau, đem phơi nắng cho đến chết hoặc nhấn chìm xuống biển. Chúng bắt đi đầy hàng nghìn chiến sĩ yêu nước, xử bắn một số chiến sĩ ưu tú của Đảng như: Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai...

Cơ sở Đảng bị tổn thất nặng, một số cán bộ đã bí mật rút vào rừng, chấn chỉnh đội ngũ chờ cơ hội hoạt động trở lại.

- Binh biến Đô Lương (13-1-1941)

Phong trào cách mạng của quần chúng đã ảnh hưởng đến tinh thần của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tại Nghệ An, binh lính rất bất bình vì bị bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho Pháp chống Thái Lan.
Ngày 13-1-1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính đồn Chợ Rạng (Thanh Chương-Nghệ An) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ôtô kéo về Vinh định cùng anh em binh lính ở đây giết giặc chiếm thành. Kế hoạch không thành. Đội Cung bị Pháp bắt và bị xử tử cùng với 10 đồng chí của ông tại Vinh. Nhiều người khác bị kết án khổ sai và đưa đi đày.

Binh biến Đô Lương là hành động yêu nước của binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương nổ ra vào lúc kẻ thù còn mạnh, lực lượng cách mạng chưa được tổ chức và chuẩn bị kỹ lưỡng nên đều thất bại.

Tuy vậy, các sự kiện oanh liệt đó đã "gây ảnh hưởng rộng lớn trong toàn quốc", nêu cao tinh thần anh hùng bất khuất của nhân dân ta, giáng đòn chí tử vào thực dân Pháp, cảnh cáo nghiêm khắc phát xít Nhật vừa mới đặt chân vào nước ta. Đó là những tiếng súng báo hiệu của cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương.

Các cuộc khởi nghĩa và binh biến nói trên, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đã để lại cho Đảng Cộng sản Đông Dương những bài học bổ ích về khởi nghĩa vũ trang; xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích, trực tiếp chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám về sau.
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1941-1945)

1. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng

Ngày 28-1-1941, sau 30 năm tìm đường cứu nước và hoạt động yêu nước ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã trở về Tổ quốc. Pắc Bó (Hà Quảng - Cao Bằng) là nơi đầu tiên được Người chọn đặt cơ quan lãnh đạo cách mạng.

Về đến Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng, chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng. Hội nghị họp trong tháng 5-1941 tại Pắc Bó do Người chủ trì, tiếp tục chủ trương của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, nhưng nêu cao hơn nữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Việt Nam, Lào,Campuchia, ở mỗi nước thành lập một mặt trận đoàn kết dân tộc. Ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), thành lập ngày 19-5-1941, bao gồm các tổ chức quần chúng, lấy tên là Hội cứu quốc, nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cầu cuộc dân tộc giải phóng.

Chuẩn bị tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trang khi thời cơ đến lúc này được coi là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta.

Cuối năm 1940, sau khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, theo chủ trương của Đảng, một bộ phận lực lượng vũ trang chuyển sang xây dựng các đội du kích, sau thống nhất thành đội Cứu quốc quân hoạt động ở căn cứ Bắc Sơn-Võ Nhai. Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7-1941 đến tháng 2-1942) sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng và tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn.

Thời gian này, Cao Bằng được coi là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các Hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942, khắp chín châu của Cao Bằng có Hội cứu quốc, trong đó có ba châu "hoàn toàn", nghĩa là mọi người đều gia nhập tổ chức Việt Minh, xã nào cũng có Uỷ ban Việt Minh. Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao-Bắc-Lạng được thành lập. Sang năm 1943, Uỷ ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh lập ra 19 ban xung phong "Nam tiến" để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn-Võ Nhai và phát triển lực lượng cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi.
Trong khi chú trọng xây dựng lực lượng chính trị trong quần chúng cơ bản ở nông thôn và thành thị, Đảng vẫn không xem nhẹ việc tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân khác, như học sinh, sinh viên, trí thức, tư sản dân tộc vào Mặt trận cứu nước. Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam, vận động thành lập Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam (cuối năm 1944) và Đảng Dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh (tháng 6-1944). Đảng còn chủ trương vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, tranh thủ cả những ngoại kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phát xít.

Giữa năm 1944, tình hình thế giới và nước ta chuyển biến mau lẹ có lợi cho cách mạng. Căn cứ vào đó, ngày 7-5-1944 Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp sửa soạn khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân “Sắm vũ khí đuổi thù chung”. Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc nêu rõ: "phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt ... Cơ hội cho 1 dân tộc ta chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh".

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và được Hồ Chí Minh giao trọng trách, ngày 22-12-1944 Võ Nguyên Giáp thành lập "Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân" gồm 34 chiến sĩ trong một khu rừng thuộc thâu Nguyên Bình - Cao Bằng. Sau đó, Đội xuất quân và giành chiến thắng liền trong hai trận, tiêu diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) ngày 25 và 26-12-1944.
Phát huy trận đầu ra quân là chiến thắng, Đội đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao-Bắc-Lạng, cổ vũ và thúc đẩy phong trào cách mạng trong cả nước.

Ở Thái Nguyên, Đội Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích, hạ nhiều đồn địch, phối hợp cùng với nhân dân thành lập chính quyền ở một số nơi. Đến giữa tháng 5-1945, hai Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân cùng nhau hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.

Như vậy, bên cạnh lực lượng hùng hậu của quần chúng, lực lượng vũ trang ra đời và trưởng thành nhanh chóng, trở thành chỗ dựa cho cách mạng.

2. Đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng

Trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng, Đảng Cộng sản đấu tranh chống lại nọc độc văn hoá tư tưởng phản động, phản khoa học của Nhật-Pháp và tay sai, tuyên truyền phổ biến văn hoá tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng, đường lối chính sách của Đảng và Mặt trận, nhằm giác ngộ cổ vũ quần chúng tham gia cách mạng.

Một trong những vũ khí sắc bén nhất của cuộc đấu tranh là sách báo. Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta luôn quan tâm đến báo chí. Báo của Đảng và Việt Minh lần lượt ra đời, ngày càng nhiều về số lượng và tốt về chất lượng, đã giữ vai trò hết sức to lớn trong đấu tranh. Đó là những tờ báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi sậy,Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập... Ngay trong một số nhà tù đế quốc các chiến sĩ cộng sản của ta cũng đã cho ra báo, như Suốì reo (Sơn La), Bình Minh (Hoà Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông Công(Bà Vân), v.v..

Đảng và Mặt trận Việt Minh còn phái các cán bộ hoạt động dưới hình thức công khai, bán công khai trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng để gây dựng phong trào văn hoá tư tưởng tiến bộ, cách mạng, mang tính chất quần chúng; họ đi sâu đi sát với những người làm công tác văn hoá-văn nghệ, với giới trí thức, thanh niên để tổ chức, đoàn kết họ, hướng họ tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa của toàn dân.

Đề cương văn hoá Việt Nam do Đảng Cộng sản đưa ra năm 1943 đã vạch rõ tính chất phản động của văn hoá nô dịch của thực dân Pháp- phát xít Nhật và tay sai, nêu lên tầm quan trọng của cách mạng văn hoá, là một trong ba mặt trận đấu tranh do Đảng lãnh đạo đó là chính trị, kinh tế và tư tưởng văn hoá.

Văn hoá mới của Việt Nam là nền văn hoá mang tính chất dân tộc và dân chủ. Nền văn hoá đó phải được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: khoa học, dân tộc, đại chúng.

Muốn cho ba nguyên tắc đó được thực hiện, một mặt,cần ra sức xây dựng nó; mặt khác,cần tích cực đấu tranh chống lại văn hoá tư tưởng thực dân phong kiến,nô dịch,phản khoa học, phản dân tộc,phản nhân dân, xa rời quần chúng. Cùng với "Đề cương văn hoá Việt Nam", Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam ra đời và tham gia Việt Minh.

Đảng còn vận động,giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam, một chính Đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu nước, tiến bộ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời tháng 6–1944 và gia nhập Việt Minh
 
Sửa lần cuối:

Trang Dimple

New member
Xu
38
Cao trào kháng Nhật cứu nước


Cuối năm 1944–đầu năm 1945, bọn phát xít liên tiếp thất bại trên nhiều mặt trận. Tháng 8 năm 1944, thủ đô Pa ri được giải phóng. Chính phủ kháng chiến của tướng Đờ Gôn lên cầm quyền.

Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn hoạt động ráo riết, đợi thời cơ lật đổ quân Nhật, giành lạị Đông Dương. Biết rõ ý đồ của Pháp, Nhật ra tay trước. Tối 9-3-1945, Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp trên toàn Đông Dương. Cũng trong đêm đó. Hội nghị mở rộng Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh).

Ngày 12-3, hội nghị ra chỉ thị Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản Chỉ thị đã vạch rõ cuộc đảo chính của Nhật đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện cho một cuộc tổng khởi nghĩa chưa chín muồi, đối tượng của cách mạng đã thay đổi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Do đó, khẩu hiệu "Đánh Pháp, đuổi Nhật" không còn thích hợp, được thay bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật" và các hình thức đấu tranh cũng thay đổi "có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, cho đến những hình thức cao hơn như biểu tình thị uy vũ trang du kích... và sẵn sàng chuyển qua hình thức Tổng khởi nghĩa một khi có đủ điều kiện.

Sau khi độc chiếm Đông Dương, phát xít Nhật liền thi hành chính sách mua chuộc, lừa bịp kết hợp với những chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo.

Về chính trị, phát xít Nhật bày trò trao trả "độc lập" cho chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim nhưng vẫn giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp, thay người Nhật vào vị trí người Pháp. Các đảng phái chính trị thân Nhật nhân dịp mọc ra như "nhím gặp mưa rào". Phát xít Nhật sử dụng bộ máy tuyên truyền đồ sộ để quảng bá cho tinh thần bài Pháp, sợ Nhật, phục Nhật. Mặt khác, chúng huy động lực lượng quân sự tấn công vào các chiến khu, các cơ sở cách mạng.

Về kinh tế, chúng chiếm các cơ sở kinh tế của Pháp, in giấy bạc tung ra thị trường, vơ vét nguyên liệu, hàng hóa, lương thực và trắng trợn tước đoạt tài sản của nhân dân ta ; làm cho nền kinh tế của ta bị kiệt quệ, cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân điêu đứng, cùng quẫn. Giá gạo ở Bắc Kỳ vào tháng 10-1944 còn là 1150 đồng/ tạ, thì đến tháng 2-1945 đã là 1.000 đồng/ tạ. Tĩnh trạng đó đã dẫn đến nạn đói khủng khiếp năm 1945, làm chết gần 2 triệu người.

Trước thực trạng đó, Đảng đã đề ra khẩu hiệu "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói và coi đó là khẩu hiệu chính để phát động phong trào chống Nhật cứu nước, đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết của nhân dân, nên khẩu hiệu có tính chất kinh tế ấy đã dấy lên một cao trào chính trị sâu rộng chưa từng thấy. Hàng vạn quần chúng đói khổ xuống đường, xông vào các kho thóc của giặc Nhật. Từ cao trào đó nhiều địa phương đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở các tỉnh đồng bằng, trung du Bắc Bộ và các tỉnh Bắc Trung Bộ nơi đã diễn ra nạn đói.

Đồng thời với phong trào phá kho thóc của Nhật cứu đói, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng cao, cuốn trôi chính quyền địch ở nhiều địa phương. Sau ngay Nhật đảo chính Pháp, Việt Minh đã lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Hiệp Hoà (Bắc Giang), Tiên Du (Bắc Ninh), Bàn Yên Nhân (Hưng Yên). Ở Quảng Ngãi, tù chính trị nhà giam Ba Tơ đã khởi nghĩa, lập chiến khu.Tại Việt Bắc, Giải phóng quân và Cứu quốc quân đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh chiếm nhiều đồn bốt, giải phóng nhiều vùng, mở rộng địa bàn hoạt động.

Tình hình diễn biến hết sức mau lẹ, có lợi cho phía cách mạng. Giữa tháng 4- 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp lúc này, quyết định phát triển lực lượng vũ trang, thống nhất các lực lực lượng vũ trang đã có thành Việt Nam Giải phóng quân, xây dựng các chiến khu kháng Nhật và cử ra ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ.

Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp. Cấp cao nhất gọi là ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam.

Ngày 15-5-1945, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân được thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.

Ngày 4-6-1945, khu giải phóng gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,Lạng Sơn, Hà Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang ra đời. Tân Trào (Tuyên Quang) được chọn làm Thủ đô khu giải phóng.Trong khu giải phóng, các ủy ban nhân dân cách mạng do dân cử ra đã thi hành 10 chính sách của Việt Minh nhằm xây dựng khu giải phóng thành căn cứ vững mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế văn hóa, làm bàn đạp giải phóng toàn quốc. Các chiến khu khác như chiến khu Vần - Hiền Lương (Yên Bái, Phú Thọ), chiến khu Trần Hưng Đạo (Đông Triều, Quảng Ninh) v.v... lần lượt ra đời.

Hoảng sợ trước sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cách mạng, xít Nhật điên cuồng mở các cuộc càn quét, tiến công vào các vùng giải phóng. Quân giải phóng, các đội tự vệ, du kích đã đánh trả quyết liệt, bảo vệ căn cứ địa cách mạng, tiêu biểu là các trận đánh bảo vệ chiến khu Vần- Hiền Lương và chiến khu Trần Hưng Đạo.

Tại các đô thị, phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh, viên chức tiểu tư sản dâng cao. Tổ chức công nhân cứu quốc được xây dựng ở nhiều xí nghiệp.

Cao trào kháng Nhật cứu nước sôi sục trên cả nước. Tình thế cách mạng trực tiếp đang tới gần .
 

Trang Dimple

New member
Xu
38
Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (2-9-1945)

1. Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ tổng khởi nghĩa

Từ cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, từng tháng, từng ngày, lịch sử chứng kiến sự diệt vong của chủ nghĩa phát xít, sự thắng lợi của loài người tiến bộ và các lực lượng dân chủ chống phát xít.

Ngày 9-8-1945, sau khi chiến thắng hoàn toàn quân Đức, Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân Nhật. Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân đội Liên Xô đánh tan gần một triệu quân Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc), buộc Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng minh không điều kiện. Chiến tranh Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt.

Việc gần một triệu quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật bị tiêu diệt đã tác động mạnh đến tinh thần quân Nhật ở Đông Dương. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim cùng với các hạng tay sai khác của Nhật đều hoang mang tan rã.

Điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đã hoàn toàn chín muồi, "thời cơ ngàn năm có một" đã đến, trong lúc điều kiện chủ quan của ta hết sức thuận lợi.
Ngày 13-8-1945 Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, liền ra "Quân lệnh số 1" hạ lệnh tổng khởi nghĩa.

Từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, tại Tân Trào diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng. Hội nghị nhận định: "Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi... Quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, hàng ngũ chỉ huy Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa giành chính quyền độc lập. Từ nhận định đó, Hội nghị đi đến quyết định phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Anh, quân Tưởng Giới Thạch vào Đông Dương tước khí giới quân Nhật và thực dân Pháp chưa kịp tập hợp lực lượng, điều quân vào xâm lược nước ta lần nữa. Hội nghị 496 còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại trong thời kỳ đầu sau khi giành được chính quyền.

Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ngay ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17-8-1945. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành hoàn toàn chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh, coi đó là chính sách cơ bản của cách mạng, cử ra ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội còn quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm Quốc ca.

Đại hội quốc dân vừa bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền:

Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên?.

2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời

Hưởng ứng lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào cả nước, triệu người như một, nhất tề đứng lên với tinh thần "Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".

Chiều 16-8-1945, theo lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào, nơi Đại hội quốc dân đang họp, tiến về thị xã Thái Nguyên, mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước.

Ở nhiều tỉnh xa, lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương đến chậm, nhưng nhờ thấm nhuần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trước đó, nhất là tinh thần chỉ thị "Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, lãnh đạo Đảng, Mặt trận dã kịp thời, chủ động phát động quần chúng nổi dậy.

Từ ngày 14 đến ngày 18-8-1945, Ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và cấp huyện, rồi tiến lên giành chính quyền ở tỉnh.

Ngày 18-8-1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,Quảng Nam giành được chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất trong cả nước.

Ngày 19-8-1945, cả Hà Nội đỏ rực màu cờ. Hàng chục vạn quần chúng cách mạng ở nội và ngoại thành mang theo gậy dao, súng, mã tấu... tiến về quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc mít tinh do Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh bắt đầu lúc 11 giờ. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến quân ca vang lên, đại biểu Uỷ ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít tinh phát triển nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành vũ trang. Quần chúng biểu tình chia thành nhiều đoàn, có các đơn vị tự vệ chiến đấu, tiến về các ngả đường, chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn: Phủ Khâm sai, Toà Thị chính, Sở cảnh sát, Trại bảo an binh... Trước khí thế sục sôi của quần chúng khởi nghĩa, Nhật dù có hơn một vạn quân cũng không thể làm gì được. Binh lính và cảnh sát ngụy cũng bất lực và cuối cùng ngả theo cách mạng. Chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19 tháng 8) đã có tiếng vang nhanh trong cả nước, có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các tỉnh và các thành phố khác, làm tăng thêm cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ kẻ thù, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Ở Huế, ngày 23-8-1945, quần chúng các huyện ngoại thành đã giành được chính quyền cùng phối hợp với công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp lao động khác trong nội thành, tiến hành cuộc biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền bù nhìn hoàn toàn tê liệt. Quân đội Nhật nằm im. Quần chúng khởi nghĩa lần lượt chiếm các công sở của địch mà không có sự kháng cự nào đáng kể.

Được tin cách mạng thắng lợi ở Hà Nội, Đảng bộ miền Nam và Sài Gòn quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh. Đêm 24-8-1945, từng đoàn quân khởi nghĩa của công nhân, nông dân,thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp lao động khác, trong tay gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8-1945, hơn một triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa lần lượt chiếm các công sở quan trọng của địch. Quân đội Nhật "án binh bất động". Cuộc khởi nghĩa giành được thắng nhanh chóng.

Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Sài Gòn có ý nghĩa quyết định đến cuộc khởi nghĩa của các tỉnh còn lại ở miền Nam.

Trừ mất thị xã do Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đóng từ trước (Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên), cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945.

Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban dân tộc giải phóng từ Tân Trào về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Đại hội quốc dân Tân Trào cử ra được cải tổ thành chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.Chính phủ lâm thời thể hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ tiến bộ.

Ngày 28-8-1945, một phái đoàn của Chính phủ lâm thời từ Hà Nội vào Huế dự lễ thoái vị của vua Bảo Đại. Chiều 30 tháng 8,ở Ngọ Môn, dưới rừng cờ đỏ sao vàng, diễn ra cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân cố đô Huế, chứng kiến Bảo Đại - ông vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, đọc lời thoái vị và trao ấn, kiếm cho cách mạng. Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân đủ các tầng lớp ở thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.

Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam được hưởng tự do độc lập mà tự mình giành lại từ tay Nhật: "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập?... Và sự thật đã thành một nước tự do độc lập".

Bản Tuyên ngôn đồng thời khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững quyền thiêng liêng ấy: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".

Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử trọng đại, và ngày 2-9-1945 mãi mãi ghi vào lịch sử Việt Nam là ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam - ngày tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Nguồn: Lương Ninh 2000, Chương XV – Cuộc vận động giành độc lập, tự do (Việt Nam 1930-1945), Lịch sử Việt Nam giản yếu, Hà Nội, Chính trị Quốc gia
 
Sửa lần cuối:
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top