• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Cho mình hỏi về Nhật Bản?

Spider_man

New member
Xu
0
1. Tại sao cuộc Duy Tân Minh Trị năm 1868 có ý nghĩa như 1 cuộc CM tư sản?

2. Theo mình biết, cuộc Duy Tân Minh Trị có:

- Lãnh đạo là phong kiến Nhật

- Động lực là quần chúng nhân dân

- Nhiệm vụ là đánh phong kiến Nhật

Vậy phong kiến đánh phong kiến? Có mâu thuẫn gì ko?

Có phải mục đích của cuộc Duy Tân là cho tư bản phát triển ko?

Các bạn hãy giúp mình giải đáp các câu hỏi trên
 

bichngoc

Moderator
1. Tại sao cuộc Duy Tân Minh Trị năm 1868 có ý nghĩa như 1 cuộc CM tư sản?

2. Theo mình biết, cuộc Duy Tân Minh Trị có:

- Lãnh đạo là phong kiến Nhật

- Động lực là quần chúng nhân dân

- Nhiệm vụ là đánh phong kiến Nhật

Vậy phong kiến đánh phong kiến? Có mâu thuẫn gì ko?

Có phải mục đích của cuộc Duy Tân là cho tư bản phát triển ko?

Các bạn hãy giúp mình giải đáp các câu hỏi trên


Câu 1 :

a.Theo Từ điển triết học ( NXB Tiến bộ ) :


CM Tư sản là loại CM mà nội dung chủ yếu của nó là giải quyết những mâu thuẫn giữa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang phát triển với chế độ chính trị và kinh tế phong kiến hoặc nửa phong kiến .

Vai trò lịch sử của cách mạng tư sản là khắc phục những trở ngại đối với sự phát triển tư bản chủ nghĩa .

Cách mạng tư sản có nhiều hình thức đa dạng tùy theo đặc điểm của từng địa phương , quốc gia trong những giai đoạn , thời điểm cụ thể . Thông thường , lực lượng lãnh đạo CMTS là giai cấp tư sản , nhưng một số trường hợp , vai trò lãnh đạo lại nằm trong tay giai cấp khác như CM Nga năm 1905 ( vai trò lãnh đạo nằm trong tay giai cấp vô sản ) .

Có hai loại cách mạng tư sản phổ biến là CMTS tầng lớp trên và CM Dân chủ tư sản .

CM tư sản tầng lớp trên được thực hiện dưới quyền lãnh đạo của giai cấp tư sản không có sự tham gia rộng rãi của nhân dân và không đi đến những cuộc cải tạo xã hội sâu sắc như cuộc cách mạng năm 1867-1868 ở Nhật Bản và cuộc cách mạng của Đảng Thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ …

Còn CM DCTS là CM được đặc trưng bằng sự tham gia của giai cấp vô sản và nông dân , bằng sự gắn bó với cách mạng ruộng đất , với phong trào nông dân nhằm cải tạo tận gốc quan hệ ruộng đất , bằng cuộc đấu tranh của quần chúng có những yêu sách khác với yêu sách của giai cấp tư sản .

b. Cuộc Duy Tân Minh Trị năm 1868 có ý nghĩa như 1 cuộc CM tư sản vì :

Cải cách Minh Trị, hay Cách mạng Minh Trị, hay Minh Trị Duy tân là một chuỗi các sự kiện cải cách, cách mạng dẫn đến các thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị của Nhật Bản.

* Nguyên nhân cải cách

Đến giữa thế kỷ XIX, sau hơn 200 năm thống trị chế độ Mạc phủ Tokugawa lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt từ kinh tế, xã hội đến chính trị.

Về kinh tế :

Nông nghiệp:Đến giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản vẫn là một nước nông nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Chế độ tô thuế nặng nề cộng với nạn mất mùa đẩy nông dân Nhật vào cảnh đói kém, bần cùng.

Công nghiệp:Những hải cảng lớn đã khiến kinh tế hàng hóa của Nhật Bản vô cùng phát triển, nhiều người giàu lên nhanh chóng nhờ công việc kinh doanh. Đó là mầm mống của chủ nghĩa tư bản ở Nhật Bản.

Về xã hội, Nhật Bản vẫn duy trì chế độ đẳng cấp với quyền lực của các daimyo và các Samurai. Tuy nhiên vào thời kỳ này các cuộc nội chiến đã kết thúc nên vai trò của các Samurai đã không còn như trước, một số chuyển sang làm nông hoạc tham gia vào các hoạt động công nghiệp, thương nghiệp.

Trong khi đó tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu lên nhưng không có quyền lực về chính trị lại bị đánh thuế nặng nề nên mâu thuẫn giữa họ và giai cấp thống trị ngày càng lớn. Cuối cùng là nông dân Nhật Bản ngày càng bị các tầng lớp trên bóc lột, áp bức nặng nề.

Về chính trị Nhật Bản là một quốc gia phong kiến với quyền hành tối cao thuộc về Nhật hoàng nhưng quyền hành thực tế lại thuộc về Mạc phủ Tokugawa. Điều này khiến các daimyo ủng hộ Nhật Hoàng tức giận, họ đòi Mạc phủ trao quyền điều hành đất nước lại cho Nhật hoàng và ngầm lập âm mưu lật đổ Mạc phủ.

Về đối ngoại : Các nước tư bản phương Tây nhân lúc tình hình Nhật Bản rối ren đã nhảy vào gây áp lực Nhật Bản phải mở cửa cho họ tự do buôn bán bởi vì chế độ Mạc phủ Tokugawa thi hành chính sách "bế quan tỏa cảng", đặc biệt là đối với các nước phương Tây. Ban đầu Mạc phủ không đồng ý nhưng khi Hoa Kỳ dùng vũ lực với việc cử 2 tàu chiến đến gây hấn khiến Mạc phủ phải ký hiệp ước với những điều khoản bất lợi thuộc về Nhật Bản như mở hai cửa biển Simoda và Hadokate cho Mỹ vào buôn bán và người Mỹ khi phạm luật ở Nhật thì Nhật không được quyền xét xử mà phải giao lại cho nước Mỹ xét xử theo luật pháp Hoa Kỳ. Sau Mỹ đến lượt Anh, Pháp, Đức đòi Nhật Bản phải mở cửa và ký những hiệp ước bất bình đẳng khác.

Trước tình hình khủng hoảng đó và sự đe dọa của các nước phương Tây đưa Nhật Bản đứng trước 2 con đường: tiếp tục duy trì chế độ phong kiến lạc hậu để thế lực thống trị (Mạc phủ) giữ được quyền lực càng lâu càng tốt với nguy cơ trở thành một nước thuộc địa hoặc đi theo con đường cải cách đất nước với cơ hội trở thành một cường quốc như các nước phương Tây.

Việc bị buộc phải mở cửa các hải cảng và chấp nhận thuế suất nhập khẩu thấp cho các nước phương Tây đã khiến Nhật Bản bị chia rẽ.

Phong trào đấu tranh chống Mạc phủ Tokugawa bùng nổ khắp nơi trong thập niên 60 của thế kỷ XIX với sự lãnh đạo của các daimyo vốn trước đây bề ngoài khuất phục Mạc phủ Tokugawa đã lấy cớ mạc phủ để cho đất nước rơi vào cảnh giống như nhà Thanh lúc đó trước sự lấn lướt của phương Tây, liền nổi dậy chống lại shogun.

Shogun, phần vì không muốn, phần vì không thể chống lại sự nổi loạn đó, đã nhân nhượng và rốt cục giải thể mạc phủ.

Một số võ sĩ cấp tiến có đầu óc cải cách (phần lớn không có nguồn gốc thế tập) và quý tộc ở triều đình đã nhân cơ hội nắm lấy quyền lãnh đạo đất nước. Họ nêu khẩu hiệu ủng hộ hoàng đế và chống lại phương Tây (sonno joui) để thành lập chính phủ của hoàng đế. Song thực chất đấy là chính phủ của chính họ, vì hoàng đế lúc ấy chỉ mới 14 tuổi. Với khẩu hiệu nói trên, và với đất đai rộng lớn của shogun mà họ tiếp quản, chính phủ mới đã có được sự ủng hộ của các daimyo nổi loạn và nguồn lực tài chính để thực hiện các cải cách.

Tháng 12 năm 1867 chế độ Mạc phủ Tokugawa chấm dứt.

Ngày 3 tháng 1 năm 1868, chính phủ mới do Nhật hoàng Minh Trị bổ nhiệm được thành lập. Giai cấp tư sản chưa được tham gia chính quyền, nhưng chế độ mới tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển, nên họ ủng hộ chính quyền mới. Thời kì Minh Trị (Minh Trị nghĩa là "sự cai trị sáng suốt") bắt đầu.

* Nội dung cải cách :

Để tận dụng ưu thế trung tâm chính trị của Edo, chính phủ mới đã đổi tên Edo thành Tokyo ( nghĩa là Kinh đô ở phía Đông) và đưa triều đình về đó.

Chính phủ mới đưa ra khẩu hiệu "Phú quốc cường binh" ( fukoku kyohei) nhằm khai thác tâm lý lo sợ Nhật Bản sẽ trở thành thuộc địa của phương Tây nếu không chịu canh tân. Trên cơ sở đó, họ đã thuyết phục được Nhật hoàng tuyên bố từ bỏ những tập tục có hại và sẵn sàng học hỏi phương Tây.

Người Nhật trở nên nhiệt tình với bunmei kaika ( văn minh khai hóa).

Để xóa quyền lực của các daimyo, chính phủ mới đã bãi bỏ hệ thống lãnh địa và danh hiệu của các daimyo. Đồng thời, họ tuyên bố "tứ dân bình đẳng", nghĩa là bốn tầng lớp gồm võ sĩ, nông dân, thợ thủ công và thương nhân giờ đây không còn bị phân biệt. Điều này gây bất bình ở tầng lớp võ sĩ, nên chính phủ phải vừa đàn áp vừa xoa dịu bằng cách bồi thường bằng tiền.

Khoản tiền nhận được từ chính phủ cộng với tri thức mà tầng lớp võ sĩ được trang bị đã biến tầng lớp võ sĩ thành giai cấp tư sản. Giai cấp võ sĩ quý tộc tư sản chủ trương xây dựng Nhật Bản theo con đường quân sự là nguyên nhân dẫn đến việc Nhật Bản sau này trở thành đế quốc phong kiến quân phiệt.

Chính phủ còn ban bố quyền tự do buôn bán (kể cả ruộng đất) và đi lại, thiết lập chế độ tiền tệ thống nhất (đồng Yên), xây dựng cơ sở hạ tầng (đặc biệt là đường sắt ) và phát triển chủ nghĩa tư bản đến tận các vùng nông thôn.

Nhiều phái đoàn được cử sang phương Tây học hỏi về cách thức quản lý hành chính và về kỹ thuật. Toà án mới (kiểu tư sản) được thành lập. Nhiều cải cách quan trọng về giáo dục được thi hành trong đó có việc thành lập các trường đại học để đào tạo tầng lớp lãnh đạo chính quyền và kinh doanh. Cơ sở hạ tầng bắt đầu được quan tâm phát triển. Nhiều chuyên gia phương Tây được mời tới Nhật Bản để phổ biến kiến thức và kỹ thuật.

Về quân sự, quân đội được tổ chức và huấn luyện theo kiểu phương Tây. Quân đội Nhật Bản áp dụng chế độ nghĩa vụ quân sự thay cho chế độ trưng binh và tăng cường mua và sản xuất vũ khí, đạn dược.

Về giáo dục, đưa những thành tựu khoa học khoa học-kỹ thuật vào giảng dạy và áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc. Những học sinh giỏi được cử sang phương Tây du học.

Năm 1889, hiến pháp mới được ban hành quy định Nhật Bản là một nước quân chủ lập hiến.

* Ý nghĩa của cải cách Minh Trị

Những sự kiện xảy ra ở Nhật Bản vào những năm 1860-1870 là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để và "thời kì Minh Trị" là thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản.

Sau năm 1868, chính quyền không ở trong tay giai cấp tư sản mà là nền chuyên chế của Nhật hoàng, ra đời trên cơ sở liên minh quý tộc - tư sản để lật đổ Shogun.

Các nhà lãnh đạo mới và tầng lớp ưu tú mới của đất nước đều có nguồn gốc võ sĩ, vì thế nước Nhật mới - Đại đế quốc Nhật Bản - vẫn mang nhiều tính chất quân phiệt.

Nhưng, cuộc cách mạng 1868 cũng mở đường cho việc biến nước Nhật Bản phong kiến thành một nước tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi số phận một nước thuộc địa hay nửa thuộc địa.

Cuộc cách mạng Minh Trị đã dẫn đến quá trình công nghiệp hóa của Nhật Bản khiến nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỷ XIX khiến nước này trở thành một cường quốc quân sự năm 1905 sau khi đánh bại hải quân hoàng gia Nga và trước đó là chiến thắng trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ (1894-1895) với nhà Thanh. Sự phát triển của kinh tế Nhật Bản cũng làm xuất hiện các công ty độc quyền với những nhà tài phiệt thao túng cả kinh tế và chính trị Nhật Bản.

Câu 2 : Bạn có thể căn cứ vào nội dung câu 1 để giải đáp :

- Lãnh đạo cuộc cải cách Minh Trị là liên minh quý tộc – tư sản , nhưng sau đó quý tộc cũng dần chuyển hóa thành tư sản . Họ là nhóm người ( chứ không phải toàn bộ giới quý tộc Nhật Bản ) có đầu óc cấp tiến và đa phần không có nguồn gốc thế tập , lại có nhiều người hoạt động trong lĩnh vực nông – công – thương nghiệp . Như vậy , nhìn bề ngoài " phong kiến đánh phong kiến " - có vẻ mâu thuẫn nhưng thực sự thì không mâu thuẫn , vì nhóm người lãnh đạo cải cách đã có sự biến đổi về bản chất giai cấp so với quý tộc cũ .

- Mục đích của cuộc duy tân là làm cho Nhật Bản cường thịnh về mọi mặt kinh tế , xã hội , quân sự , chính trị , đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng và nguy cơ lệ thuộc vào phương Tây. Quá trình tiến hành cải cách đã mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nhật Bản .


Trên đây là một số suy nghĩ riêng và ý kiến mà mình tham khảo được . Hy vọng chúng có thể giúp bạn phần nào giải đáp những thắc mắc về cải cách Minh Trị của nước Nhật . Chúc bạn học tốt môn Lịch sử !
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top