Tri thức luận (Epistemology) là nhánh triết học khảo cứu phạm vi là giới hạn của tri thức. Nó tìm kiếm cách giải quyết các vấn đề cơ bản như: Bản chất của tri thức là gì? khả năng và mức độ tiếp thu kiến thức của con người? Đâu là giới hạn của tri thức, về mặt lý thuyết cũng như về mặt thực tiễn ? (Thuật ngữ "epistemology" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu tri thức. )
Luận lý học (Logic) có thể được xem là một bộ phận của tri thức luận. Công việc chủ yếu của nó là khảo sát bản chất của lối tư duy chính xác và lý luận hiệu quả, bao gồm các phương pháp tư duy hợp lý.
Tìm hiểu toàn bộ phạm vi của bộ môn tri thức luận và luận lý học đòi hỏi công phu nghiên cứu và cả một đời học hỏi. Tuy nhiên, bạn đọc sẽ tìm thấy trong phần này những đoạn tóm lược rất hữu ích về các vấn đề trọng tâm và hàng loạt giải pháp dành cho các vấn đề ấy. Quá trình thảo luận ở phần này bao gồm:
1. Các tiêu chuẩn (criteria) được sử dụng để phân biệt lẽ đúng sai.
2. Phân tích những lỗi nguỵ biện chủ yếu trong tiến trình lập luận (the fallacies of reasoning).
3. Gút mắc trọng tâm về bản chất của chân lý (nature of truth), bao gồm cả vấn đề liệu rằng chân lý có nằm trong tầm nắm bắt của con người hay không.
Sau đây, xin mời các bạn bước vào phần thảo luận: Các tiêu chuẩn xác định chân lý
Một trong những lãnh vực quan trọng mà luận lý học quan tâm đến là xác định các khả năng kiểm chứng chân lý, các tiêu chuẩn phân biệt lẽ đúng sai. Tiêu chuẩn xác định chân lý là thước đo chuẩn mực được dùng để đánh giá sự chân xác của các ý tưởng và nhận định. Vì lẽ đó, nó cũng được xem là một công cụ kiểm chứng sự thật.
Để có được một cái nhìn rõ ràng và đúng đắn về bất kỳ bộ môn triết học nào, chúng ta phải thấu triệt các tiêu chuẩn chân lý của nó. Đó là điều kiện quan trọng đặc biệt, bởi lẽ các hệ thống triết lý khác nhau thường đưa ra những ý tưởng bất đồng với nhau. Bản thân các quy tắc luận lý không thể vạch ra các sự kiện về giới nhân sinh hay giới tự nhiên. Để khám phá những sự kiện ấy, hay để đánh giá mức độ đáng tin cậy của một lập luận nào đó, mỗi cá nhân phải dựa vào các tiêu chuẩn xác định chân lý để tự mình phân định đúng sai.
Không phải tất cả những gì được gọi là "tiêu chuẩn chân lý" đều có giá trị và hiệu lực như nhau. Một số thì thoả đáng, số khác thì đáng được nghi vấn. Các tiêu chuẩn đề cập bên dưới đây, không phải được chọn theo cơ sở giá trị và hiệu lực, đúng hơn là theo quan niệm đại chúng. Tuy nhiên, theo cách đánh giá của giới học giả, chúng được xem là thông dụng và gần gũi nhất.
1. Tập quán (Custom)
Hữu ý hay vô thức, nhiều người có khuynh hướng xem tập quán như một tiêu chuẩn chân lý, cho rằng tuân thủ theo thói thường sẽ tránh cho họ khỏi những hành vi thái quá. Lời khuyên: "Nhập giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục" cổ xuý cho khuynh hướng ấy, đặc biệt trong những vấn đề có liên quan đến cung cách ứng xử thể hiện tính đúng đắn về mặt đạo đức. Thông thường, những người trung thành với chuẩn mực tập quán luôn hành động theo xu hướng của số đông, sử dụng ngôn từ đang thịnh hành và tuân thủ các nguyên tắc đạo đức phổ biến đương thời - nói cách khác, hành động thuận theo thói thường.
Cân nhắc một cách nghiêm chỉnh, tập quán khó lòng được xem là một tiêu chuẩn chân lý thoả đáng. Rõ ràng, trong quá trình thu thập chứng cứ thực tế hoặc khảo cứu một nguyên lý nào đó, các khoa học gia không bao giờ nhìn nhận các tập quán, của đa số cũng như thiểu số, như là một phương tiện kiểm chứng sự thật. Nói cho cùng, một cuộc thăm dò dư luận công chúng không thể nào là phương cách thoả đáng nhất để nhận định các chân lý khoa học.
2. Truyền thống (Tradition)
Tương tự như tập quán, truyền thống cũng được xem là một tiêu chuẩn kiểm chứng chân lý. Những người chấp nhận tiêu chuẩn này quan niệm rằng: những gì đã tồn tại suốt nhiều thế hệ phải có giá trị và hiệu quả nhất định, xứng đáng được xem là một chuẩn mực đáng tin cậy.
Những lập luận phản bác tiêu chuẩn tập quán cũng có thể được sử dụng để chống lại tiêu chuẩn truyền thống. Hơn nữa, có rất nhiều tập tục truyền thống chỉ đơn thuần lặp lại những định kiến sai lầm hoặc cổ hủ (thí dụ như những hủ tục mê tín dị đoan của các bộ lạc sơ khai ). Bên cạnh đó, thực tế cho thấy các truyền thống khác nhau thường tương phản nhau. Rõ ràng, giới khoa học không bao giờ chấp nhận yếu tố truyền thống như là một phương tiện kiểm chứng trong quá trình khám phá chân lý.
3. Thời gian (Time)
Hẳn là các bạn đã từng chứng kiến một số người viện dẫn thời gian như thế là yếu tố kiểm chứng chân lý trong quá trình lập luận. Thí dụ: “niềm tin của tôi đã đã đứng vững qua thử thách của thời gian”, hoặc là “giáo lý thiên chúa thực sự là một chân lý”, bởi vì nó đã được kiểm chứng qua thời gian.
Cơ sở của dạng lập luận như thế căn cứ theo tiền đề cho rằng: Nếu như một niềm tin thực sự sai lầm, chẳng sớm thì muộn, sai lầm ấy sẽ hiển lộ ra. Nếu như niềm tin ấy thực sự đúng đắn, dòng chảy của thời gian không thể nào xói mòn được chân giá trị của nó.
Tuy vậy, thời gian không phải là một tiêu chuẩn hoàn hảo để kiểm chứng chân lý. Nó có mối quan hệ hết sức gần gũi với tập quán và truyền thống - nói đúng hơn, hai yếu tố ấy chính là hai trong nhiều khía cạnh của thời gian. Thực tế, lịch sử nhân loại ghi nhận rất nhiều giá trị sai lầm tồn tại suốt một thời gian rất dài trước khi bị phát hiện ra - những niềm tin mê muội có thể bám theo con người suốt nhiều thế hệ, nhiều thế kỷ, thậm chí cả thiên niên kỷ. Mặt khác, nếu như thời gian là một tiêu chuẩn thực sự hoàn hảo, hẳn là những tín đồ của các tôn giáo vĩ đại, như đạo Phật hay đạo Thiên Chúa, nên buông bỏ niềm tin và cải đạo theo các hệ thống tôn giáo khác có lịch sử tồn tại lâu đời hơn hàng trăm, hàng ngàn năm so với tôn giáo của họ
4. Cảm tính (hay Xúc Cảm)
Khi đối mặt với tình huống bắt buộc phải đưa ra một quyết định dứt khoát, nhiều người đã cho phép cảm xúc làm chủ bản thân, không cố gắng tìm kiếm và đánh giá các sự kiện có liên quan, thậm chí đi ngược lại con đường mà chứng cớ thực tế vạch ra cho họ. Rõ ràng, những người như thế chấp nhận cảm tính như là tiêu chuẩn chân lý. Rất nhiều người trong số họ dựa vào cảm giác chủ quan để ứng xử trong các tình huống khác nhau, từ những gút mắc nảy sinh trong cuộc sống đời thường đến các vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả một cộng đồng.
Tuy nhiên, ngày nay hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng họ không thể đặt nặng tình cảm khi giải quyết các vấn đề quan trọng trong cuộc sống. Các doanh nhân có kinh nghiệm thường gạt bỏ xúc cảm cá nhân, tìm kiếm các sự kiện và dữ liệu khách quan trước khi tiến hành một dự án đầu tư. Tương tự, các khoa học gia, y sĩ, sử gia và học giả thuộc mọi lĩnh vực cũng học cách "phớt lờ" các phản ứng xuất phát từ cảm tính chủ quan như thế.
5. Bản năng (Instinct)
Từ lâu, sự tồn tại của các dạng bản năng riêng biệt là đề tài của nhiều cuộc tranh luận. Cách ứng xử theo bản năng có thể được xem là có quan hệ với cảm tính, hoặc là một dạng cảm giác có tính phổ quát (a universal mode of feeling). Xét từ quan điểm ấy, chính cảm giác khát thôi thúc chúng ta uống, cảm giác đói thôi thúc chúng ta ăn, v.v.... Một số người có tiến xa hơn khi lập luận rằng ngay cả sự tồn tại của Thượng Đế cũng có thể xem xét như là một nhu cầu của bản năng, rằng mọi bản năng đều có đối tượng tương ứng trong thế giới thực tại. Theo ý nghĩ đó, đối tướng tương ứng của khát là một chất lỏng nào đó có thể uống được, của đói là thức ăn, của bản năng sinh lý là bạn tình, v.v....Hệ quả của các lập luận này là: đối với các tín đồ, tôn giáo cũng là một nhu cầu của bản năng và từ đó, Thượng Đế có lý do tồn tại.
Bản năng không thể được nhìn nhận như là một yếu tố kiểm chứng đáng tin cậy. Đa số các bản năng có tính mơ hồ, khó xác định, nhiều mức độ biến thể và chỉ giới hạn trong một số hình thái hoạt động cụ thể. Ngay cả khi chúng ta chập nhận hiệu quả kiểm chứng của bản nănh, tầm ứng dụng của chúng cũng quá hạn hẹp, không thể giúp chúng ta thu nhập được nhiều bằng chứng đáng tin cậy. Nói cho cùng, liệu rằng bản năng có thể giúp được điều gì cho một nhà khoa học đang tìm hiểu thành phần cấu tạo của các chất hoá học?
6. Linh cảm (Hunch)
Linh cảm là một cảm giác đột phát, có lẽ được dựa trên một ý niệm mơ hồ, bất định. Thật khó lòng xem xét nó như là một tiêu chuẩn chân lý thoả đáng, tuy rằng nhiều người thường cho phép linh cảm ảnh hưởng đến quyết định của mình. Các linh cảm có mối quan hệ khăng khít với cảm tính và trực giác, tiêu chuẩn được bàn đến bên dưới đây.
7. Trực giác (Intuition)
Tiêu chuẩn này bao hàm sự phán xét không cần đến quá trình suy luận các sự kiện thực tế; nó là một dạng chân lý được giả định là xuất phát từ một nguồn trí tuệ chưa rõ hay chưa được khai phá. Nhiều người đạt được năng lực trực giác, về sau được xác nhận là đúng với sự thật. Một vài khoa học gia, không vận dụng tiến trình suy lý theo nhận thức khách quan, bất chợt phát hiện ra một giả thuyết hay bằng chứng hữu dụng cho công việc nghiên cứu. Sự kiện này có thể diễn ra trong thời gian họ đang thư giãn mơ màng, hoặc khi dang thực hiện những công việc không có liên quan gì đến mục tiêu họ đang tìm kiếm.
Có hai ý kiến phản bác tiêu chuẩn trực giác:
1. Trực giác không phải là một phương diện sẵn có để sử dụng khi cần thiết. Khác với phương pháp suy lý, trực giác không thể được vận dụng một cách chủ động trong những trường hợp cụ thể.
2. Với giá trị hoàn hảo nhất, trực giác cũng chỉ là nguồn chân lý tiềm tàng, không phải là một yếu tố kiểm chứng. Khi trực giác lên tiếng, chúng ta nên lập tức tìm cách kiểm tra mức độ xác thực của nó.
8. Thiên khải (Revelation)
Trong khi nguồn gốc của trực giác vẫn chưa được xác định rõ, nguồn gốc của thiên khải được quy về Thượng đế - đó là điểm khác biệt chủ yếu. Thiên khải có thể được định nghĩa là một hình thức hiển lộ chân lý, xuất phát từ Thượng đế. Rất nhiều tôn giáo đặt trọn niềm tin vào giá trị của thiên khải như là một tiêu chuẩn chân lý tuyệt đối.
Các ý kiến phản bác tiêu chuẩn trực giác kể trên cũng có thể áp dụng cho tiêu chuẩn thiên khải. Khi ai đó tuyên bố rằng mình đã đón nhận kinh nghiệm thiên khải, chính người ấy chịu trách nhiệm tìm cách chứng minh kinh nghiệm đó và vì thế, cần đến một tiêu chuẩn kiểm chứng khác. Người ta có thể chấp nhận thiên khải như một nguồn chân lý, nhưng không thể sử dụng kinh nghiệm cá nhân ấy như một phương tiện truyền đạt giá trị của niềm tin nơi mình.
Luận lý học (Logic) có thể được xem là một bộ phận của tri thức luận. Công việc chủ yếu của nó là khảo sát bản chất của lối tư duy chính xác và lý luận hiệu quả, bao gồm các phương pháp tư duy hợp lý.
Tìm hiểu toàn bộ phạm vi của bộ môn tri thức luận và luận lý học đòi hỏi công phu nghiên cứu và cả một đời học hỏi. Tuy nhiên, bạn đọc sẽ tìm thấy trong phần này những đoạn tóm lược rất hữu ích về các vấn đề trọng tâm và hàng loạt giải pháp dành cho các vấn đề ấy. Quá trình thảo luận ở phần này bao gồm:
1. Các tiêu chuẩn (criteria) được sử dụng để phân biệt lẽ đúng sai.
2. Phân tích những lỗi nguỵ biện chủ yếu trong tiến trình lập luận (the fallacies of reasoning).
3. Gút mắc trọng tâm về bản chất của chân lý (nature of truth), bao gồm cả vấn đề liệu rằng chân lý có nằm trong tầm nắm bắt của con người hay không.
Sau đây, xin mời các bạn bước vào phần thảo luận: Các tiêu chuẩn xác định chân lý
Một trong những lãnh vực quan trọng mà luận lý học quan tâm đến là xác định các khả năng kiểm chứng chân lý, các tiêu chuẩn phân biệt lẽ đúng sai. Tiêu chuẩn xác định chân lý là thước đo chuẩn mực được dùng để đánh giá sự chân xác của các ý tưởng và nhận định. Vì lẽ đó, nó cũng được xem là một công cụ kiểm chứng sự thật.
Để có được một cái nhìn rõ ràng và đúng đắn về bất kỳ bộ môn triết học nào, chúng ta phải thấu triệt các tiêu chuẩn chân lý của nó. Đó là điều kiện quan trọng đặc biệt, bởi lẽ các hệ thống triết lý khác nhau thường đưa ra những ý tưởng bất đồng với nhau. Bản thân các quy tắc luận lý không thể vạch ra các sự kiện về giới nhân sinh hay giới tự nhiên. Để khám phá những sự kiện ấy, hay để đánh giá mức độ đáng tin cậy của một lập luận nào đó, mỗi cá nhân phải dựa vào các tiêu chuẩn xác định chân lý để tự mình phân định đúng sai.
Không phải tất cả những gì được gọi là "tiêu chuẩn chân lý" đều có giá trị và hiệu lực như nhau. Một số thì thoả đáng, số khác thì đáng được nghi vấn. Các tiêu chuẩn đề cập bên dưới đây, không phải được chọn theo cơ sở giá trị và hiệu lực, đúng hơn là theo quan niệm đại chúng. Tuy nhiên, theo cách đánh giá của giới học giả, chúng được xem là thông dụng và gần gũi nhất.
1. Tập quán (Custom)
Hữu ý hay vô thức, nhiều người có khuynh hướng xem tập quán như một tiêu chuẩn chân lý, cho rằng tuân thủ theo thói thường sẽ tránh cho họ khỏi những hành vi thái quá. Lời khuyên: "Nhập giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục" cổ xuý cho khuynh hướng ấy, đặc biệt trong những vấn đề có liên quan đến cung cách ứng xử thể hiện tính đúng đắn về mặt đạo đức. Thông thường, những người trung thành với chuẩn mực tập quán luôn hành động theo xu hướng của số đông, sử dụng ngôn từ đang thịnh hành và tuân thủ các nguyên tắc đạo đức phổ biến đương thời - nói cách khác, hành động thuận theo thói thường.
Cân nhắc một cách nghiêm chỉnh, tập quán khó lòng được xem là một tiêu chuẩn chân lý thoả đáng. Rõ ràng, trong quá trình thu thập chứng cứ thực tế hoặc khảo cứu một nguyên lý nào đó, các khoa học gia không bao giờ nhìn nhận các tập quán, của đa số cũng như thiểu số, như là một phương tiện kiểm chứng sự thật. Nói cho cùng, một cuộc thăm dò dư luận công chúng không thể nào là phương cách thoả đáng nhất để nhận định các chân lý khoa học.
2. Truyền thống (Tradition)
Tương tự như tập quán, truyền thống cũng được xem là một tiêu chuẩn kiểm chứng chân lý. Những người chấp nhận tiêu chuẩn này quan niệm rằng: những gì đã tồn tại suốt nhiều thế hệ phải có giá trị và hiệu quả nhất định, xứng đáng được xem là một chuẩn mực đáng tin cậy.
Những lập luận phản bác tiêu chuẩn tập quán cũng có thể được sử dụng để chống lại tiêu chuẩn truyền thống. Hơn nữa, có rất nhiều tập tục truyền thống chỉ đơn thuần lặp lại những định kiến sai lầm hoặc cổ hủ (thí dụ như những hủ tục mê tín dị đoan của các bộ lạc sơ khai ). Bên cạnh đó, thực tế cho thấy các truyền thống khác nhau thường tương phản nhau. Rõ ràng, giới khoa học không bao giờ chấp nhận yếu tố truyền thống như là một phương tiện kiểm chứng trong quá trình khám phá chân lý.
3. Thời gian (Time)
Hẳn là các bạn đã từng chứng kiến một số người viện dẫn thời gian như thế là yếu tố kiểm chứng chân lý trong quá trình lập luận. Thí dụ: “niềm tin của tôi đã đã đứng vững qua thử thách của thời gian”, hoặc là “giáo lý thiên chúa thực sự là một chân lý”, bởi vì nó đã được kiểm chứng qua thời gian.
Cơ sở của dạng lập luận như thế căn cứ theo tiền đề cho rằng: Nếu như một niềm tin thực sự sai lầm, chẳng sớm thì muộn, sai lầm ấy sẽ hiển lộ ra. Nếu như niềm tin ấy thực sự đúng đắn, dòng chảy của thời gian không thể nào xói mòn được chân giá trị của nó.
Tuy vậy, thời gian không phải là một tiêu chuẩn hoàn hảo để kiểm chứng chân lý. Nó có mối quan hệ hết sức gần gũi với tập quán và truyền thống - nói đúng hơn, hai yếu tố ấy chính là hai trong nhiều khía cạnh của thời gian. Thực tế, lịch sử nhân loại ghi nhận rất nhiều giá trị sai lầm tồn tại suốt một thời gian rất dài trước khi bị phát hiện ra - những niềm tin mê muội có thể bám theo con người suốt nhiều thế hệ, nhiều thế kỷ, thậm chí cả thiên niên kỷ. Mặt khác, nếu như thời gian là một tiêu chuẩn thực sự hoàn hảo, hẳn là những tín đồ của các tôn giáo vĩ đại, như đạo Phật hay đạo Thiên Chúa, nên buông bỏ niềm tin và cải đạo theo các hệ thống tôn giáo khác có lịch sử tồn tại lâu đời hơn hàng trăm, hàng ngàn năm so với tôn giáo của họ
4. Cảm tính (hay Xúc Cảm)
Khi đối mặt với tình huống bắt buộc phải đưa ra một quyết định dứt khoát, nhiều người đã cho phép cảm xúc làm chủ bản thân, không cố gắng tìm kiếm và đánh giá các sự kiện có liên quan, thậm chí đi ngược lại con đường mà chứng cớ thực tế vạch ra cho họ. Rõ ràng, những người như thế chấp nhận cảm tính như là tiêu chuẩn chân lý. Rất nhiều người trong số họ dựa vào cảm giác chủ quan để ứng xử trong các tình huống khác nhau, từ những gút mắc nảy sinh trong cuộc sống đời thường đến các vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả một cộng đồng.
Tuy nhiên, ngày nay hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng họ không thể đặt nặng tình cảm khi giải quyết các vấn đề quan trọng trong cuộc sống. Các doanh nhân có kinh nghiệm thường gạt bỏ xúc cảm cá nhân, tìm kiếm các sự kiện và dữ liệu khách quan trước khi tiến hành một dự án đầu tư. Tương tự, các khoa học gia, y sĩ, sử gia và học giả thuộc mọi lĩnh vực cũng học cách "phớt lờ" các phản ứng xuất phát từ cảm tính chủ quan như thế.
5. Bản năng (Instinct)
Từ lâu, sự tồn tại của các dạng bản năng riêng biệt là đề tài của nhiều cuộc tranh luận. Cách ứng xử theo bản năng có thể được xem là có quan hệ với cảm tính, hoặc là một dạng cảm giác có tính phổ quát (a universal mode of feeling). Xét từ quan điểm ấy, chính cảm giác khát thôi thúc chúng ta uống, cảm giác đói thôi thúc chúng ta ăn, v.v.... Một số người có tiến xa hơn khi lập luận rằng ngay cả sự tồn tại của Thượng Đế cũng có thể xem xét như là một nhu cầu của bản năng, rằng mọi bản năng đều có đối tượng tương ứng trong thế giới thực tại. Theo ý nghĩ đó, đối tướng tương ứng của khát là một chất lỏng nào đó có thể uống được, của đói là thức ăn, của bản năng sinh lý là bạn tình, v.v....Hệ quả của các lập luận này là: đối với các tín đồ, tôn giáo cũng là một nhu cầu của bản năng và từ đó, Thượng Đế có lý do tồn tại.
Bản năng không thể được nhìn nhận như là một yếu tố kiểm chứng đáng tin cậy. Đa số các bản năng có tính mơ hồ, khó xác định, nhiều mức độ biến thể và chỉ giới hạn trong một số hình thái hoạt động cụ thể. Ngay cả khi chúng ta chập nhận hiệu quả kiểm chứng của bản nănh, tầm ứng dụng của chúng cũng quá hạn hẹp, không thể giúp chúng ta thu nhập được nhiều bằng chứng đáng tin cậy. Nói cho cùng, liệu rằng bản năng có thể giúp được điều gì cho một nhà khoa học đang tìm hiểu thành phần cấu tạo của các chất hoá học?
6. Linh cảm (Hunch)
Linh cảm là một cảm giác đột phát, có lẽ được dựa trên một ý niệm mơ hồ, bất định. Thật khó lòng xem xét nó như là một tiêu chuẩn chân lý thoả đáng, tuy rằng nhiều người thường cho phép linh cảm ảnh hưởng đến quyết định của mình. Các linh cảm có mối quan hệ khăng khít với cảm tính và trực giác, tiêu chuẩn được bàn đến bên dưới đây.
7. Trực giác (Intuition)
Tiêu chuẩn này bao hàm sự phán xét không cần đến quá trình suy luận các sự kiện thực tế; nó là một dạng chân lý được giả định là xuất phát từ một nguồn trí tuệ chưa rõ hay chưa được khai phá. Nhiều người đạt được năng lực trực giác, về sau được xác nhận là đúng với sự thật. Một vài khoa học gia, không vận dụng tiến trình suy lý theo nhận thức khách quan, bất chợt phát hiện ra một giả thuyết hay bằng chứng hữu dụng cho công việc nghiên cứu. Sự kiện này có thể diễn ra trong thời gian họ đang thư giãn mơ màng, hoặc khi dang thực hiện những công việc không có liên quan gì đến mục tiêu họ đang tìm kiếm.
Có hai ý kiến phản bác tiêu chuẩn trực giác:
1. Trực giác không phải là một phương diện sẵn có để sử dụng khi cần thiết. Khác với phương pháp suy lý, trực giác không thể được vận dụng một cách chủ động trong những trường hợp cụ thể.
2. Với giá trị hoàn hảo nhất, trực giác cũng chỉ là nguồn chân lý tiềm tàng, không phải là một yếu tố kiểm chứng. Khi trực giác lên tiếng, chúng ta nên lập tức tìm cách kiểm tra mức độ xác thực của nó.
8. Thiên khải (Revelation)
Trong khi nguồn gốc của trực giác vẫn chưa được xác định rõ, nguồn gốc của thiên khải được quy về Thượng đế - đó là điểm khác biệt chủ yếu. Thiên khải có thể được định nghĩa là một hình thức hiển lộ chân lý, xuất phát từ Thượng đế. Rất nhiều tôn giáo đặt trọn niềm tin vào giá trị của thiên khải như là một tiêu chuẩn chân lý tuyệt đối.
Các ý kiến phản bác tiêu chuẩn trực giác kể trên cũng có thể áp dụng cho tiêu chuẩn thiên khải. Khi ai đó tuyên bố rằng mình đã đón nhận kinh nghiệm thiên khải, chính người ấy chịu trách nhiệm tìm cách chứng minh kinh nghiệm đó và vì thế, cần đến một tiêu chuẩn kiểm chứng khác. Người ta có thể chấp nhận thiên khải như một nguồn chân lý, nhưng không thể sử dụng kinh nghiệm cá nhân ấy như một phương tiện truyền đạt giá trị của niềm tin nơi mình.