• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Thảo luận Bàn tay của Đức Phật A Di Đà

Nói về chữ Hương. Hương, tức là thơm, một danh từ chỉ cho mùi thơm. Chỉ có mũi mới ngửi được mùi. Theo Duy Thức Học của Phật Giáo gọi cái biết của mũi là Tỷ thức, danh từ vật lý là khứu giác. Cái biết của mũi có phân biệt nhiều mùi: tanh, hôi, thơm, thối, mốc meo…

hqdefault.jpg


Chữ Hương là tiếng Tàu, tiếng Việt nói là Thơm. Người Việt ta có lúc nói cả hai chữ “hương thơm.” Thế nào gọi là Thơm? Mùi nào, mũi vừa nghe, ý không phản đối, chấp nhận và thích, đó là mùi thơm. Ngược lại, không gọi là hương. Có những mùi thơm làm quyến rũ con người vừa đi qua, phải quay lui, liếc mắt tìm xem mùi thơm đó từ chỗ nào, vật nào tỏa ra khi mắt chưa phát hiện. Hoặc là một vật thể mang nhãn nước hoa khi mắt đã thấy, người ta cầm lên mũi ngửi để xác định phẩm chất và giá trị của nó.

Mùi thơm, phần đông ở các loài hoa như hoa Sen, Hồng, Ngọc Lan, Lài, Dạ Lý Hương, v.v… và gỗ như gỗ Trầm.

Các loài hoa, chúng tự tỏa ra mùi thơm. Còn gỗ trầm phải đốt lên tỏa khói mới nghe thơm. Trong các loài hoa có mùi thơm, thì hoa sen tỏa mùi thơm ngát và thư thái hơn tất thảy, do vậy gọi là Hương Sen và Trầm cũng thơm ngát, thanh tú khắp không gian, gọi là Hương trầm khi được đốt lên, nghe rõ qua lời ca: “Trầm hương đốt, xông ngát mười phương,” vì vậy gọi là Trầm Hương. Khói trầm bốc lên không quyện lại tành mây gọi là Hương vân (mây thơm).

Hai loại mùi thơm trong sáng và hấp dẫn lòng người, đó là hoa và trầm. nên nhân loại trên thế giới trong các giai cấp vua, chúa, quý tộc, giàu sang… từ ngàn xưa, đã tìm đủ mọi cách, làm sao cho những mùi thơm của hoa, trầm luôn tồn tại mãi nơi bản thân mình. Với hoa, khó có thể tạo ra mùi thơm lâu dài! Còn trầm hương có thể được, bằng cách đốt lên trong căn phòng, rồi đặt để những quần, áo, xiêm, y vào đó, để xông ướp mùi thơm.

Hiện tại khoa học, kỹ thuật của nhân loại đã tiến bộ, bởi thế đã chế tạo ra nhiều loại nước hoa rất tinh xảo cho nam giới, phụ nữ một cách biệt lập có mùi thơm thanh nhẹ, mặn mà, nồng thắm thật hấp dẫn khứu giác con người.

Mùi thơm trên cõi đời này được thấy ở hai lãnh vực vật chất và ý thức. Vật chất như những thứ: Hoa, trầm, cà phê, rượu, cam, lê, ổi, táo, rau thơm, ngò rí, v.v… Mùi thơm của ngò, khi cầm trong tay liền nghe thơm, bỏ vào nồi canh, càng nghe rõ hơn, đúng như lời người chị dặn: “Khi nấu canh, em nhớ bỏ ngò vào cho thơm.” Ngũ cốc, như các thứ gạo, nếp đều có mùi thơm.

2_35061.jpg

Thành tâm. Ảnh sưu tầm

Chất thơm của gạo, khi bản thể của chúng đang có tên Lúa trên cánh đồng đã thơm rồi, gọi là hương đồng nội, được nghe qua lời thơ: “Hôm qua em đi tỉnh về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” (thơ Nguyễn Bính). Bản thể đang còn hạt lúa đã thơm, sau khi bị xay xác thành gạo, nấu lên thành cơm càng thơm hơn, nghe là muốn ăn liền. Để cho khách hàng được thấy rõ, các chủ chợ đề ngoài bao: “ Gạo thơm thượng hạng.” Có thứ gạo ít thơm, nhưng người ta cứ đề thơm thượng hạng để được giá.

Tinh thần. Lãnh vực này, được phần nhiều Phật tử đem lời thắc mắc rằng; ý thức mà cũng có mùi thơm à? Xin đáp, có chứ!

Mùi thơm của ý thức được gọi là Tâm hương , hay còn gọi là lòng thơm thảo. tâm nhang cũng được thấy ở hai giới nhân sinh: Đời và Đạo. Đạo ở đây là Đạo Phật. Chỉ có Đạo Phật mới có tâm nhang. Người theo Đạo Phật, ai cũng được có từ 1, 3,4 hay 5 tâm nhang (vị hương của tâm) theo nguyên lý, hễ có tu tập Phật pháp một cách tinh tấn, là có tâm nhang. Người không tu tập Phật pháp, cũng có nhưng, hương đó gọi là hương đời, do có công gì với sông núi, được đời biết đến. Hương có tu tập Phật pháp gọi là Hương Đạo.

Tâm hương của người trần thế Việt Nam. Tâm hương của người Việt chúng ta, đó là những đức tính nhân văn đầy nhân ái, đạo đức, phúc hậu, biết thương yêu đồng bào, sống đời khảng khái, chính trực, công minh, liêm chính, chân thật, tận tụy việc nước, việc nhà thật chu toàn… tâm nhang này, được thấy ở các hàng sĩ phu, trí thức khoa giáp ở các địa vị giáo dục, chính quyền, chính trị, quân sự trong mọi thời đại trên quê hương xưa nay.

Cả thảy đức tính nhân bản này là nền móng tạo nên lòng yêu nước, cương quyết chống ngoại xâm một cách quật cường trước bạo lực của giặc, để giành độc lập dân tộc. tâm nhang là đó, cũng được gọi là vị ngọt tâm hồn, lòng thơm thảo. tâm nhang của những nhà đạo đức, liêm chính này, được đi vào tâm hồn của toàn dân trên cả nước, đâu đâu cũng nghe, biết đến.

Những người có tâm nhang, một khi được có trong lòng, ắt phải hiển lộ ra những hành động quên mình: cho giang san, vì dân, vì nước, luôn vị tha, lợi lộc cho dân tộc trước tiên và trên hết. Phải có danh gì với nước non như vậy, thì danh mới Thơm, tiếng tăm được đi vào trang sử Việt, đúng theo định lý duyên khởi của Phật Giáo “Thử hữu cố bỉ hữu” (Cái này có, cái kia có).
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Chiêm ngưỡng tôn tượng mỗi Chư Phật, Chư Bồ Tát, Phật tử đều có thể thấy phần nào hạnh nguyện của Quý Ngài.

Bồ Tát Quán Thế Âm với nhành dương liễu và bình tịnh thủy trên tay, nghe tiếng kêu thương nơi đâu, Ngài liền đến cứu khổ. Nhành liễu phẩy sạch bụi uế trược, nước Cam Lộ rưới mát thống khổ:

“Lòng Bi như sấm động
Ý Từ tựa đường mây
Xối mưa pháp Cam Lộ
Lửa não phiền dứt ngay”

Vị Bồ tát phát đại nguyện “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật” là Ngài Địa Tạng Vương thì uy nghi với cây tích trượng:

“Trong tay đã sẵn gậy vàng
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh
Tay cầm châu sáng tròn vìn
Hào quang soi khắp ba nghìn đại thiên”

Hai vị Bồ Tát tiêu biểu cho lòng đại từ đại bi như trên đều có trong tay những pháp khí để xử dụng trên đường ban vui cứu khổ. Riêng Đức Phật A Di Đà, chỉ hiện thân một nhân dáng chói lòa, uy nghiêm và an lạc với bàn tay phải buông thõng.

Mỗi thể hiện, mỗi cử chỉ, lời nói, dù rất nhỏ, rất ngắn, của Chư Phật, Chư Bồ Tát, đều chẳng phải tình cờ mà là ẩn dụ những ẩn ý thâm sâu.


vì sao Đức Phật A Di Đà không dùng một pháp khí nào khi cứu nhân độ thế? Vậy thì, bàn tay phải buông thõng của Ngài có phải là một lời nhắn nhủ gì không?

Tùy theo giác quan, mỗi người cảm nhận được lời khuyến tấn của Ngài theo lòng nguyện vọng riêng.

Với những bước đầu sơ cơ học đạo, tôi chiêm ngưỡng bàn tay phải của Ngài như dấu mốc tuyệt hảo cho người cầu đạo vươn tới:

“Này các con, tay ta luôn mở mang, đợi. Các con hãy nạm bước tới, nắm lấy đi. Các con phải tu, phải học, phải kiên tâm hành trì giáo pháp, tạo cho mình đủ nội lực, tự giác thì năng lượng giác tha của ta mới có thể độ thoát. Phải đủ sức và quyết tâm bước tới, nắm lấy tay ta, ta mới dắt các con đi được…”

Đó là cảm nhận của riêng tôi vì tôi thấy ý nghĩa này hạp với tấm lòng từ mẫn vô biên trong Kinh A Di Đà: “… Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ …”

Đó là tấm lòng trời biển của Chư Phật, Chư Bồ Tát đối với chúng sanh. Tùy theo cảnh ngộ và môi trường, có những vị chỉ cho, cho ngay, cho không, khi chúng sanh gặp cơn nguy khốn. Nhưng có những vị muốn vun bồi cho chúng sanh phần vốn trí tuệ thì các Ngài phải chiêu dụ chúng sanh tu tập.

Bàn tay phải của Đức Phật A Di Đà là một “giải thưởng treo cao” cho các học sinh gắng học để đạt tới, dẫu đang ở cõi này hay đang lang thang ba đường sáu nẻo!

Một lần, trong Trai Đàn Chẩn Tế Tam Thời Hệ Niệm, tôi đã cảm nhận bàn tay Từ Bi đó vẫy gọi những hương linh được thân nhân mời về cùng dự khóa tu. Âm thanh tán dương của quý Thầy, Cô, quyện vào tiếng trống, tiếng chuông, mõ, khánh, của ban pháp khí và lòng thành của toàn thể đông đảo đại chúng đã chuyển tải luồng năng lượng cực kỳ dõng mãnh, thể hiện rõ rệt câu kệ

“Đạo thông cảm không thể nghĩ bàn”; nên giữa thời kinh, trong đạo tràng đã vang lên những tiếng nấc xúc động, những giòng lệ lặng lẽ tuôn rơi…

Và tôi nghe trong tôi, nghẹn ngào thầm gọi: “Ông bà ơi! Cha ơi! Mẹ ơi! Bàn tay phải của Đức Phật A Di Đà đang chờ ông bà, Cha Mẹ đó! Nếu còn chơ vơ sáu nẻo ba đường, xin hãy chũm đến gần! Hãy nắm lấy cho được, bàn tay Đức Phật để Ngài dẫn về Cực Lạc quốc độ! Ngài đang hiện diện nơi đây cho quơ mọi oan hồn uổng tử, xin ông bà, Cha Mẹ hãy bước thật nhanh, tới gần Ngài đi, nắm lấy bàn tay đó đi! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!”

Nghịch cảnh thời thế đã bứng tôi ra khỏi vòng tay bố mẹ. Nơi xứ người, tôi từng ngàn lần tạ lỗi Mẹ, tạ lỗi Cha, vì khi ba má khuất núi, tôi đều chẳng thể có mặt để tụng những thời kinh A Di Đà như khi xưa tôi thường vừa thỉnh chuông mõ, vừa dẫn kinh để bác mẹ tụng theo.

Niềm ăn năn lớn lao đó theo tôi đủ bốn mùa, nên sau mỗi thời công phu chiều, tôi thường tĩnh tọa, lắng tâm, và âm thầm kính cẩn đặt vào Bàn Tay Phải Của Đức Phật A Di Đà, chút công đức nhỏ nhoi, hồi hướng tới hai thân đã khuất.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Trích nguồn : https://phatphapvansutuyduyen.blogspot.com/2017/05/ban-tay-cua-duc-phat-a-di-da.html
 
Ngày xưa, dân ta có truyền thuyết rằng quơ súc vật và con người đều có thể thông tiếng nói của nhau.

Tâm hồn chúng sanh thanh thản nhẹ nhõm, ham vui làm việc thiện lành tốt đẹp. Trong kho tàng truyện cổ nước ta có câu chuyện khuyên người nên “ăn nói phải thời.”

Chuyện kể lại: Một hôm đến ngày kị cơm vợ, sau khi đi chợ sắm sanh thức ăn, đun nấu cúng kiến đã xong, chuột nhớ vợ mũi lòng muốn khóc, các con thì còn nhỏ chưa cảm biết hiểu được nỗi thương lòng của cha.


Chuột cha lại quá nghiêm, nên chả đứa nào bạo gan dám lên tiếng chia xẻ. Bỗng chuột nhìn xuống bờ hồ thấy bác cóc đang ung dung thả bộ. Chuột bèn chạy tuột xuống gốc cau (nhà chú chuột trên ngọn cau cao), đến bờ hồ kính cẩn vái chào bác cóc vàng cùng tỏ lời mời bác cóc về nhà dùng chút rượu cho vui.

Vốn cách xa đã lâu, lòng vẫn thấy thương nhớ thế nào, nhất là chú chuột vóc dáng thân thể thấy có ốm om gầy, phờ phạc hơn dạo trước, cóc hoan hỉ nhận lời.

Khi đến gốc cau, cóc lắc đầu ngấm nguẩy “Xin lỗi, cám ơn bác, có điều trèo cây nào phải nghề của tôi, xin để cho dịp khác.” Chuột thanh minh: “Bác đừng ngại, cứ ngậm chặt đuôi tôi, khi tôi vào trong nhà, bác đã tọa vững chắc, hồi đó mới nhả đuôi tôi, chúng ta thả phanh đánh chén, khi về thì bác ngồi trên lưng tôi, ôm chặt lấy mình tôi, xuống đến gốc cau thì chúng ta giã từ.” Cóc suy ngẫm: “Âu đây cũng là chuyến du hành kỳ thú.”

Khi lên vừa đến nhà, bốn chú chuột con thấy khách, nhớ lời cha dặn, bèn kéo nhau ra cửa vòng tay cúi đầu chào bác cóc. Cóc thấy xấp nhỏ con chuột lễ độ, bèn nói lời khen tặng, nhưng mới há miệng bác đã rơi xuống gốc cau, xương sống bác đùn lại, da thịt bác lại nhô lên, máu mũi tươm ra, bác phải ngồi chồm hổm suốt đời, không còn kho-an thai đi lại như trước đây, mỗi khi trời trở mưa, bác thấy toàn thân đau buốt, bác phải kêu khóc rên rẩm cho vơi bớt nỗi nhức nhối trong thân.

Bác Cóc thấy con bạn ngoan nên khen là đúng, nhưng chỉ vì nói chưa phải lúc mà họa tai còn đến, suýt làm mất mạng.

bởi vậy giờ nào thì việc nấy, chớ bao giờ nô giỡn phá phách hoặc dấm dúi nô đùa trong lớp học, trong lúc làm việc. Tai họa sẽ đến lớn hơn nhiều.


Trích nguồn : https://phatphaptrongtamtri.blogspot.com/2017/05/an-noi-phai-thoi.html
 

phatphapungdung

New member
Xu
0
Trong các vật nuôi, gà là loài gia cầm đông đảo, có ý nghĩa tinh thần phong phú và giá trị biểu tượng cao. Nó miêu tả vai trò gần gụi mà quan yếu, tạo nên những ảnh hưởng mạnh mẽ, đa dạng và hăng hái trong đời sống văn hóa Việt Nam.


Gà còn được lấy làm đối tượng cho hàng trăm câu ngạn ngữ, phương ngữ, tục ngữ, thành ngữ sinh động, dân dã mà thâm thúy. “Bút sa gà chết” lưu ý chuyện đã viết đã ký quyết định rồi thì không sửa đổi được nữa, phải chịu mọi rủi ro và nghĩa vụ liên tưởng. “Con gà tức nhau tiếng gáy” chỉ tâm lý ganh đua, không chịu kém cạnh người khác. “Gà giò ngứa cựa” nhìn người trẻ tuổi mà hung hăng, ham đối chọi, hay khiêu khích. “Gà què bị chó đuổi” than cảnh kẻ yếu đuối, thương tật lại bị tai nạn, nguy hiểm dồn dập. “Mẹ gà con vịt” đánh giá về quan hệ mẹ con hình thức (thường xảy ra với quan hệ dì ghẻ-con chồng). “Một tiền gà ba tiền thóc” là sự cân nhắc khi vì một món lợi nhỏ mà phải bỏ ra chi phí lớn. “Trông gà hóa cuốc” là việc nhìn nhầm, trông cái này tưởng cái kia hoặc nhận thức sai bản tính của sự vật, hiện tượng. “Vợ nhà gà chợ” là những thứ mặc sức coi xét, muốn làm gì cũng có thể được…

Hình ảnh gà trở nên sinh động, gần gũi hơn qua những trò chơi và lễ hội truyền thống. phổ quát mà đặc sắc nhất vẫn là chọi gà. Trò chơi này hay được tổ chức trong những ngày vui, ngày hội hoặc các cuộc chơi thể thao văn hóa dân dã với cách khác nhau tùy thuộc số lượng và thành phần đối tượng tham gia. Thường mở đầu mỗi trận đấu, 2 chủ gà ôm con gà chọi của mình đứng ở mép sân (sới gà), đối diện nhau. Lúc trọng tài phát lệnh, họ nhất tề thả gà; hai con gà sẽ lao vào đấu chọi và mỗi hiệp đấu được tính bằng thời kì cháy hết nửa nén nhang hoặc 15-30 phút. Con gà bị thua nếu gục tại chỗ, hoặc bỏ chạy, hoặc bị địch thủ đánh dồn khỏi vòng quây giới hạn trên sới. Chọi gà vốn đã có từ lâu đời. Ngay từ thời Tiền Lê (980-1009), nó được đưa vào cung đình, làm trò tiêu khiển cho vua quan. Đến cuối thế kỷ 18, Nguyễn Lữ - một trong ba thủ lĩnh quân Tây Sơn - đã sáng lập ra môn hùng kê quyền (quyền gà chọi) là bài quyền mô phỏng các kỹ thuật của gà chọi (động tác nhanh nhạy, can đảm trước đối thủ với việc dùng ngón tay trỏ để đâm mô phỏng hình mỏ gà, các ngón còn lại co vào như chiếc cựa gà, nhắm vào các đích hiểm như huyệt đạo, hầu, ngực… đối thủ) . Hùng kê quyền hiện tại đã trở nên một trong 10 bài danh võ được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam chọn lọc chính thức qua các kỳ hội nghị chuyên môn toàn quốc.

Ở một lĩnh vực khác, yên ắng nhưng phong phú, vững bền là hình tượng gà trong kiến trúc, tạo hình, trang trí. Gà được biểu thị khá đa dạng trên tranh, bia, miếu, đình, đền, chùa, rạp, nhà, công sở… với đủ loại chất liệu: đất, đá, vữa, bạc, đồng, gỗ, mực… và bằng nhiều kỹ thuật: tạc, đắp, nặn, xăm, chạm, khắc, đúc, nung, vẽ…

Không chỉ với dân tộc Kinh (Việt), gà cũng đi sâu vào đời sống văn hóa của nhiều dân tộc trong cộng đồng Việt Nam. Người Tày và người Nùng quan niệm trong đêm giao thừa, với các vật nuôi, nếu gà kêu hoặc gáy trước hết thì gia đình sẽ may mắn, hạnh phúc năm mới; lễ phẩm đi tết quan yếu nhất là gà trống thiến, còn đi ăn hỏi quan trọng nhất là một đôi gà. Người Mông thì coi gà trống là cầu nối giữa thế giới con người và thế giới ghế. Người Cơ Tu lại coi con gà là biểu thị cho sự sống, gắn liền với ánh sáng, với màng tang. Người Khơ Mú, cô dâu chú rể trong ngày cưới phải chìa đầu gối ra cho ông mối rỏ tiết gà tươi vào (nếu giọt tiết chảy xuôi theo ống quyển xuống thì hai vợ chồng sẽ sống hạnh phúc, hòa thuận; còn nếu chảy lệch hẳn sang một bên hoặc chia làm hai ngả thì cuộc sống hôn nhân sẽ đối mặt với nhiều thử thách).

Trích nguồn : https://baihocynghiacuocsonghay.blogspot.com/2017/05/ga-trong-doi-song-van-hoa-viet-nam.html
 
Xe chạy đường trường hơn một giờ, nói quanh trong xóm quê thêm độ nửa giờ nữa thì rẽ vô một khu hơi nghèo vắng rồi ngừng lại trong sân một căn nhà có vẻ khang trang trên khu đất rộng. Tấm bảng sơn xanh chữ đỏ có tên ngôi chùa nằm khiêm nhường bên một cội cây cành lá xum xuê. Tên chùa cũng bình thường nhưng chữ chùa khiến già Thanh có thiện cảm hơn tiếng tự thường gặp. “Chùa Pháp Vân,” nghe gần gụi hơn “Pháp Vân Tự” nhiều.

Cũng không thấy những câu đối liễn màu đỏ chói chang, mệt mắt với kiểu chữ Việt viết tròn tròn giả Hán tự thường có. Già Thanh thầm thì trong bụng: “Chắc chắn sư trụ trì nhiều Việt tính... những chi tiết nho nhỏ như thế nầy rất đáng ngưỡng phục và nên khuếch tán. Hẳn sẽ có nhiều điều đáng nghe, đáng học ở vị sư nầy.”


Cảnh quang thoáng đạt, vắng bóng những tượng đá trắng rườm rà phô trương tạc những nhân vật huyền thoại chẳng ai biết nghệ nhân lấy chi tiết từ đâu. Chỉ có một mình ngôi tượng mẹ Quan Âm đưa thiên nhãn nhân hậu nhìn khách, như theo dõi để chở che những bước chân của tín chúng thập phương. Cả ba người bước tới chưn tượng xá ba xá làm lễ ra mắt rồi đến cửa, bấm chuông. Hai chiếc xe quẹo vô bãi đậu, ba cặp khách Mỹ tới dưới chân tượng, chấp tay ngang bụng, nghiêm trang đứng mặc niệm.

“Hình tượng Phật Bà dễ được kính tin vì tương tợ với hình tượng Đức Mẹ của họ.” Già Thanh nói với con gái, mắt không rời những vị khách tóc vàng với lòng cảm phục. “Chùa Việt Nam nơi xứ người dựng tượng Phật Bà ngoài sân trống vắng mục đích là tạo sự dễ dàng cho việc chiêm bái ngoài nghi tiết. Người bản xứ chỉ cần đến cầu nguyện rồi về, không phải vào chánh điện, không phải trò chuyện với vị trụ trì, vốn chướng ngại về ngôn ngữ tôn giáo.”

Người đàn bà mỉm cười hãnh diện trao ánh mắt với chồng như thầm nói đạo Phật của mình cũng có chút nào ảnh hưởng lên người bản địa rồi áy náy nói với cha rằng mình rất ngại khi đến đây mà không thông tin trước cho sư ni. Anh chồng nói mình có lý do vì làm theo ý cha từ xa đến muốn thăm linh của cháu, luôn thể viếng cảnh một ngôi chùa địa phương.

Vậy mà chúng không cho mình biết đây là chùa sư nữ! Già Thanh hơi ngạc nhiên rồi mạnh dạn bước lên thềm bấm chuông. chừng như lâu lắm, chừng hơn mười phút, sư cô trụ trì mới ra mở cửa. Nụ cười hiền hòa và thân thiện chiếm ngay thiện cảm của khách. “Xin lỗi vì để quí khách đợi hơi lâu. Chùa vắng, ngày thường phải đóng cửa, tín hữu viếng chùa thì bấm chuông, ni ở đây chỉ có mình mình, phải cẩn thận ngừa những bất trắc.”

Trụ trì thân tình dẫn khách đi viếng phòng ốc. Chánh điện trang nghiêm. Gian phòng thờ các linh sạch sẽ, yên ấm trong cách miêu tả đơn giản. Hình đứa cháu gái chớm tuổi hai mươi đang nở nụ cười vui như cười chào cha mẹ và ông ngoại đến thăm. Con bé toát ra nét trẻ trung yêu đời biết bao bên cạnh hàng mấy mươi hình đồng cảnh khác. Già Thanh nhìn từng hình, từng hình.

hồ hết là những bức hình tươi trẻ. Có thể người nhà đã chọn tấm ảnh đẹp nhứt cho người nằm xuống. Già Thanh không thấy mình khác với họ bao lăm khi nghĩ rằng bất kỳ ai trong các hình kia trước đây cũng như mình và sau nầy mình cũng như họ thôi. Người mẹ ngước nhìn hình con gái mình, thân thiết, mắt đỏ hoe, mọng ước, đưa tay len lén dụi. Người cha day mặt ra sau, cúi đầu. Không khí lắng đọng.

Già Thanh muốn đưa tay lên sờ tấm hình cháu ngoại nhưng ngại tạo thêm nỗi buồn cho bố mẹ nó nên đành thôi. Nói nhỏ: “Cháu ở chùa nghe kinh, mau siêu thoát.”

Tiếng sư ni phá tan sự buồn thảm đó: “Cũng gần giáp năm cháu rồi. Mau quá. Hai tháng nữa chứ mấy.”
Người mẹ:

“Dạ, sư cô nhớ hay quá. Đến lúc đó cũng xin nhờ sư cô lo liệu mọi sự cho cháu. Chúng con không hiểu biết lắm những gì cần phải làm.”

Tiếng con của người đạo hữu canh chừng bằng tuổi với sư ni trụ trì khiến già Thanh thấy vui vui. Con gái mình đã phần nào đè xuống cái ngã mạn khi thốt ra trôi chảy tiếng con. Bản ngã nói cho cùng cũng là không, chỉ vì con người gán cho nó tánh cách nhập làm một với hình hài huyễn hóa ngày nay vốn bị lầm tưởng là thường trụ, nên ngại ngùng khi dùng với người tu hành ngang tuổi đời...

Trích nguồn : https://cachlamdeptrangda.blogspot.com/2017/05/giot-nuoc-nghieng-minh.html
 
Ngày cũ qua để đón ngày mới. Tháng cũ qua để đón tháng mới. Năm cũ qua để đón năm mới. rút cục thì cũng năm tàn tháng tận. Một năm cũ sẽ trôi qua, và một năm mới sắp đến. Thật là dông dài để nói chuyện cũ và mới. Mà thực ra cái mới thường chỉ được nhận ra qua những tờ lịch, và những chiếc đồng hồ, trên tường, hay trên máy vi tính, trên điện thoại di động.

Nhưng những gì được gọi là mới, có thực thụ là mới không? Có cái gì hoàn toàn tinh khôi, mới mẻ, chưa từng được thấy, chưa từng được nghe không? — Không có cái mới nào cơ mà chẳng liên tưởng với cái cũ. Chẳng có tương lai nào mà không liên can với ngày nay và dĩ vãng. Có một sự liên tiếp sinh ra và hủy diệt trong tuốt luốt mọi sự mọi vật, hữu hình và vô hình.

Cái mất đi làm duyên cho cái được sinh ra, cái được sinh ra lại làm duyên cho cái bị mất đi. Đã có sinh, tất có diệt. Đã có diệt, tất có sinh. Cái bị diệt bởi vậy không hoàn toàn mất đi, mà cái được sinh cũng không hoàn toàn khai sinh mới mẻ. vơ đều duyên với nhau mà sinh, duyên với nhau mà diệt. Không có sự mất và được trong vận hành nhân quả và duyên sinh của cả thảy mọi sự.

Vậy thì buồn không, khi một cái gì đó không còn nữa, và có vui không khi một cái gì đó mới xuất hiện? Chúng ta có mất đi cái cũ và được cái mới không? Suy nghiệm điều nầy không phải để vô cảm, nhạt thếch với sự sinh-diệt, mà chính là để thấy một cách sâu sắc bản chất của mọi sự vật, để không bị đau khổ hệ lụy từ những hiện tượng vô thường xảy ra chung quanh, trong đời sống thường nhật, và trong tâm thức.

Khi nước lũ qua rồi, những kẻ khốn cùng nối cúi xuống, thu dọn rác rến, chùi rửa nhà cửa, thăm lại vườn rau, thửa ruộng, xem còn gì, mất gì. người thân, bạn bè, láng giềng, ai còn ai mất. của nả, vật dụng trong nhà, thứ gì vướng kẹt lại trong sình lầy, thứ gì đã trôi đi.

Khi bom đạn ngừng rơi, những người dân vô tội vừa gào khóc, vừa bươi tìm xác người thân trong những đống gạch vụn. hàng xóm, hàng xóm, ai ở lại, ai đã bỏ đi tìm nơi chốn an ổn.

tai ách nầy, từ đâu, do ai? Vì cớ gì người ta đã hủy diệt tất thảy những gì chúng tôi gầy dựng nên. Nhân danh ai, nhân danh lý tưởng nào mà quý vị bắt chúng tôi phải cam chịu tất cả, từ mất mát tài sản cho đến cả mạng sống của những người nhà yêu nhất? Khi quý vị đạt được những gì mới, quý vị có biết là chúng tôi đã mất đi những gì cũ kỹ mà quý giá nhất hay không?

Sau những thất bại nặng nề, hay một chiến thắng to lớn, hãy nhìn lại bức tranh đời sống: có những người buồn, có những người vui. Nhưng cái vui sẽ không lâu dài, và cái buồn cũng thế, không vĩnh viễn. Cái mới thực ra chỉ là làm cho sống lại cái cũ trong giai kỳ sắp tới; và muốn cái mới nầy không lăn theo vết tích thương đau của cái cũ, người ta phải ứng dụng, khơi dậy niềm thương yêu ở ngay nơi phút giây giao thừa, cái cũ chưa qua, cái mới chưa đến. Có tức là phải bắt đầu ngay trong đương hiện, ngay nơi phút chốc hiện tiền; có như vậy, mai sau gần nhất sẽ được vận hành và lưu chuyển bằng niềm thương yêu chứ không phải bằng tham, thù hận như người ta đã làm trong quá vãng.

Tình thương luôn có mặt, không có mới -cũ, được-mất, nhưng sẽ là điều kỳ diệu để vực dậy niềm tin yêu trong đời sống, mang lại an lạc, hạnh phúc đích thực cho chính mình, cho hết thảy.

Và dù thời tiết hà khắc băng giá thế nào, hãy vươn mình dậy. Bằng tình thương, chúng ta có thể cúi mình xuống chăm sóc vết thương đời khi người cần đến, nhưng luôn luôn, cần phải đứng thẳng với niềm hy vọng, hướng về ngày mai tươi sáng.

Trích nguồn : https://truonghaitingiamcan.blogspot.com/2017/05/cu-va-moi-duoc-va-mat_28.html
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top